Về đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp ở nước ta
Tình hình đổi mới của các doanh nghiệp
Đổi mới công nghệ nhằm nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh nghiệp và nền kinh tế là vấn đề được đề cập nhiều trong thời gian qua. Tuy vậy, những gì diễn ra trên thực tế vẫn bộc lộ nhiều hạn chế. Ngoài việc thiếu vắng hoạt động đổi mới công nghệ (qua một thời gian dài) trong nhiều doanh nghiệp, ngay trong doanh nghiệp tiến hành đổi mới công nghệ cũng có điều đáng bàn.
Nhìn chung, đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp thường chỉ là đi mua máy móc, thiết bị mới về và đi học nắm các thao tác cần thiết cho vận hành máy móc thiết bị đó. Hầu như không có nghiên cứu sâu để làm chủ, cải tiến và phát triển công nghệ… Đổi mới công nghệ được tiến hành khá bị động theo sức ép của thị trường. Khi khách hàng đến đặt mặt hàng mới, đòi hỏi công nghệ mới, thì cơ sở sản xuất mới đi tìm công nghệ mới. Qua điều tra của đề tài “nghiên cứu cơ sở khoa học cho một số chính sách và biện pháp thúc đẩy đổi mới công nghệ và R&D trong các cơ sở sản xuất ở Việt Nam” (Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN) cho thấy, 67% doanh nghiệp thừa nhận “sức ép cạnh tranh thị trường” là động cơ tiến hành đổi mới, và chỉ có 48% khẳng định “cơ hội kinh doanh hứa hẹn mang lại lợi nhuận” là động cơ tiến hành đổi mới. Ngoài ra, còn có cả những trường hợp đổi mới công nghệ được diễn ra do gợi ý cho tiền từ trên và việc đổi mới được doanh nghịêp coi là biện pháp giải ngân…
Nếu chia đổi mới công nghệ thành hai loại: loại đổi mới công nghệ mang tính tiêu cực (thụ động, chỉ tiếp nhận những gì có sẵn và không phát triển) và đổi mới công nghệ tích cực (chủ động, có cải tiến và phát triển công nghệ nhập từ bên ngoài, tự mình tạo ra và tham gia chuyển giao công nghệ cho nơi khác), thì cơ bản phải xếp các doanh nghiệp nước ta thuộc loại đổi mới công nghệ tiêu cực. Cũng có một cách khác để đánh giá đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp là mới chỉ tiếp nhận công nghệ được chuyển giao như hàng hoá tiêu dùng thông thường thay vì là loại hàng hoá đặc biệt vì có những tiềm năng to lớn có thể khai thác trong quá trình sử dụng.
Có thể khái quát quá trình đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp nước ta là phần lớn các doanh nghiệp chưa tiến hành đổi mới công nghệ tích cực.
Hạn chế trong đổi mới công nghệ là một lý do cơ bản giải thích cho trình độ công nghệ không cao, thể loại sản phẩm nghèo nàn, khả năng xuất khẩu thấp của doanh nghiệp nước ta hiện nay. Chẳng hạn, theo điều tra của Viện Khoa học Thống kê tiến hành ở 7.232 doanh nghiệp trên phạm vi cả nước vào thời điểm năm 2002, đối với doanh nghiệp nhà nước, có tới 62,67% không có sản phẩm xuất khẩu, số doanh nghiệp xuất khẩu tốt chiếm 23,87%. Tương tự, đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, có tới 67,14% doanh nghiệp không có sản phẩm xuất khẩu; trong số các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, số doanh nghiệp xuất khẩu tốt chiếm17,26%.
Đi sâu hơn nữa, chúng ta thấy hoạt động đổi mới công nghệ ở các doanh nghiệp đang phải chịu nhiều cản trở và những điều kiện bất lợi như:
- Nhận thức về cách hội nhập của các doanh nghiệp còn chưa đầy đủ.
- Trình độ đội ngũ doanh nghiệp còn thấp. Theo phản ánh của các doanh nghiệp: nhân lực để tiếp nhận, lắp đặt, vận hành thì có, nhưng nhân lực để khai thác triệt để, nâng cao hiệu quả công nghệ thì quá hiếm. Không chỉ trình độ đội ngũ lao động mà trình độ của lãnh đạo doanh nghiệp cũng ảnh hưởng đến đổi mới công nghệ. Nhiều ý kiến cho biết, đổi mới công nghệ của đơn vị còn phụ thuộc vào tầm nhìn của lãnh đạo doanh nghiệp về vai trò của KH&CN, hiểu biết của lãnh đạo về công nghệ. Thiếu hiểu biết của lãnh đạo về công nghệ không chỉ khiến các doanh nghiệp ngại tiến hành đổi mới mà còn tai hại hơn là nhập khẩu nhầm công nghệ.
- Thiếu vốn cho đổi mới công nghệ. Đối với các doanh nghiệp, việc vay ngân hàng không dễ; mặt khác, vay ngân hàng thì phải trả sớm, trước khi công nghệ mới phát huy tác dụng…
- Thiếu thông tin về công nghệ, thiếu chuyên gia thực sự về đánh giá và tư vấn công nghệ, các tổ chức môi giới công nghệ. Đây thực sự là trở ngại lớn nhất. Trên thực tế, khi buộc phải tiến hành đổi mới công nghệ, các doanh nghiệp dường như dấn thân vào cuộc phiêu lưu kiểu “bịt mắt bắt dê”. Cách các doanh nghiệp thường làm là tự xem có doanh nghiệp nào trong nước đã nhập công nghệ thì theo (điều này không phải lúc nào cũng thực hiên được dễ dàng vì các doanh nghiệp bây giờ muốn giữ bí mật đối với đối thủ cạnh tranh trong ngành…), thông qua kênh bạn bè và người nhà là Việt kiều, tự mình ra nước ngoài kiếm công nghệ. Điều đó khiến ta hiểu được những tâm sự như “khi các hãng chào hàng thì đều cho mình là “số 1”nhưng không có ai đứng ra làm trung gian để sàng lọc ra xem ai là thật, ai là giả”(ý kiến của Giám đốc Công ty Rau quả Tiền Giang), “Thân phận doanh nghiệp là rất đơn độc trong lựa chọn công nghệ, tiếp nhận công nghệ…”(ý kiến của Giám Đốc Công ty thức ăn chăn nuôi Bạc Liêu).
- So với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, doanh nghiệp quốc doanh còn chịu thêm một số trở ngại:
+ Thủ tục xét duyệt các dự án đổi mới công nghệ quá phức tạp, phiền toái qua nhiều cửa, nhiều cầu. Không chỉ nguồn vốn Nhà nước mà cả nguồn vốn đi vay ngân hàng (mặc dù đã có thẩm định đầu tư của ngân hàng) cũng phải trải qua các trình tự tái thẩm định của các cơ quan nhà nước. Hậu quả của sự phức tạp, phiền toái này là vừa làm nản lòng doanh nghiệp, vừa kéo dài thời gian do đó, làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Để công nghệ mới phát huy tác dụng thì cần có thời gian. Tuy nhiên, việc quy định Giám Đốc doanh nghiệp nhà nước từ chức nếu đơn vị làm ăn lỗ hai năm liên tục đã làm cho các giám đốc ít dám tiến hành đổi mới công nghệ.
+ Phải tuân thủ các quy định bất hợp lý về khen thưởng động viên đối với người lao động có sáng kiến, cải tiến kĩ thuật.
- Sự hợp tác hỗ trợ của các viện nghiên cứu, trường đại học cho các doanh nghiệp còn hạn chế. Nhiều doanh nghiệp cho rằng các nhà khoa học ở các viện, trường còn chưa đủ sức đóng vai trò hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp. Một phần là do các nhà khoa học không có thực tế; phần khác, các nhà khoa học chỉ nắm về kĩ thuật mà không sành về kinh tế.
- Hoạt động về R&D của các doanh nghiệp còn kém phát triển. Nhiều doanh nghiệp không có bộ phận R&D riêng. Ngay cả những doanh nghiệp có phòng kĩ thuật thì phòng này cũng chưa thể hiện rõ vai trò đổi mới đối với công nghệ của đơn vị.
- Hỗ trợ của hệ thống đề tài nghiên cứu có nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước cho đổi mới công nghệ của doanh nghiệp còn hạn chế.
Biện pháp thúc đẩy đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ vốn có ý nghĩa quyết định tới khả năng cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp và của nền kinh tế. Sẽ không sợ sai lầm khi khẳng định rằng, nói đến công nghiệp hoá, hiên đại hoá, nói đến hội nhập thì trước hết phải đổi mới từ công nghệ diễn ra ở các doanh nghiệp. Bởi vậy, những lực cản đổi với đổi mới công nghệ cần được sớm quan tâm giải quyết. Dưới đây xin nêu một số biện pháp nhằm góp phần thúc đẩy đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp ở nước ta.
Khẩn trương phát triển hệ thống các tổ trức về tư vấn, môi giới công nghệ, giúp doanh nghiệp về thông tin, chất lượng và giá cả công nghệ. Trước mắt, trong mỗi ngành nên có một số chuyên gia giỏi tập trung ở hai trung tâm (Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh) để khi doanh nghiệp cần tới sẽ liên hệ. Việc phát triển nhanh chóng hệ thống tổ chức tư vấn, môi giới công nghệ có thể thực hiện bằng cách chuyển một số viện nghiên cứu sang hoạt động trong lĩnh vực này như kinh nghiệm mới đây của Trung Quốc.
- Gây dựng vai trò tổ chức của doanh nghiệp trong đổi mới công nghệ. Doanh nghiệp phải là người chủ động trong đổi mới nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Các doanh nghiệp không chỉ đưa ra những yêu cầu trực tiếp tiến hành đổi mới mà còn đứng ra tổ chức đổi mới; xác định tầm nhìn chiến lược hội tụ kế hoạch kinh doanh và nhu cầu công nghệ làm cơ sở cho định hướng cạnh tranh của doanh nghiệp; mở rộng mạng lưới gồm nhiều doanh nghiệp hợp tác với nhiều tổ chức nghiên cứu và các tổ chức thương mại, tài chính…
- Thành lập các hiệp hội ngành nghề có khả năng bảo vệ bí quyết công nghệ nội bộ và tạo điều kiện chia sẻ bí quyết công nghệ nội bộ. Hiệp hội dạng này sẽ giúp khắc phục tình trạng các doanh nghiệp trong cùng một ngành thường giữ bí mật công nghệ với nhau.
- Tiếp tục đổi mới chính sách về hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp đổi mới công nghệ. Xúc tiến mạnh việc hình thành Quỹ hỗ trợ đổi mới công nghệ ở địa phương.
Hiện tại đã có một số chính sách nhằm vào hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp, chẳng hạn như Nghị định 119/1999/NĐ-CP. Đây là những chính sách có thể mở ra nhiều hướng vận dụng phong phú và các địa phương có thể khai thác và thực hiện như Phú Yên, Đồng Nai… Về tỷ lệ khấu hao, nên thay đổi theo hướng trao quyền quyết định cho các giám đốc doanh nghiệp (thời điểm thuận lợi khì khấu hao nhanh, thời điểm khó khăn thì khấu hao chậm).
- Tăng cường quản lý nhà nước về công nghệ. Hiện nay quản lý công nghệ ở các địa phương rất yếu. Tại các Sở KH&CN, bộ phận quản lý công nghệ đều đã được thành lập (thường nằm chung một phòng với kiểm soát và an toàn bức xạ, hạt nhân, sở hữu trí tuệ, thông tin KH&CN) nhưng hoạt động quản lý công nghệ còn chưa được đẩy mạnh do các nguyên nhân như: hướng dẫn của Bộ KH&CN về quản lý công nghệ cho các Sở KH&CN còn chưa rõ ràng và rành mạch nên các địa phương rất khó thực hiện; quy định hiện hành không tạo điều kiện cho các Sở KH&CN tiến hành quản lý công nghệ (không bắt buộc các doanh nghiệp phải báo cáo tình hình với Sở KH&CN, muốn thẩm định công nghệ thì Sở KH&CN phải chờ xem Sở Kế hoạch và Đầu tư có mời hay không,…); đội ngũ làm công tác quản lý công nghệ vừa yếu, vừa thiếu; thiếu hệ thống thông tin cần thiết về tình hình công nghệ trên thế giới để hỗ trợ đội ngũ quản lý công nghệ ở địa phương. Đó chính là những vấn đề cần khắc phục để thúc đẩy quản lý nhà nước đối với công nghệ ở các địa phương.
- Phát triển các chương trình liên kết nhà nước - viện, trường - doanh nghiệp nhằm phục vụ cho đổi mới công nghệ. Ở đây có thể nhân rộng kinh nghiệm của thành phố Hồ Chí Minh trong việc hình thành và phát triển mô hình “Tam giác liên kết: Doanh nghiệp - Nhà nước - Cơ sở nghiên cứu khoa học”.
- Tuyên truyền, khuyến khích hoạt động chuyển giao công nghệ trong nước (chuyển giao giữa tổ chức KH&CN và doanh nghiệp, chuyển giao giữa doanh nghiệp và doanh nghiệp). Trên thực tế không ít doanh nghiệp đã thành công trong tiếp nhận công nghệ trong nước, dùng công nghệ trong nước bổ sung cho công nghệ nhập ngoại… Hơn nữa, chuyển giao công nghệ trong nước, qua phát biểu của một số doanh nghiệp, có những ưu điểm như: khi trục trặc kỹ thuật thì có người của đơn vị chuyển giao đến hướng dẫn giải quyết ngay; khi thiết bị bị hỏng thì dễ tìm được phụ tùng thay thế; việc chuyển giao diễn ra nhanh hơn.
Với các biện pháp trên, đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp đã được đặt trong vấn đề phát triển thị trường công nghệ và tạo lập hệ thống đổi mới quốc gia ở Việt Nam . Theo đó, tình hình sẽ thực sự được cải thiện khi các doanh nghiệp trở thành chủ thể hoạt động trên thị trường công nghệ và là hạt nhân của hệ thống đổi mới quốc gia.
Nguồn: Thông tin KH & CN, số 4, 2005, tr 6-8








