Vai trò đê sông Hồng sau khi có hồ Sơn La
Đến các Vua đầu triều Nguyễn: Gia Long và Minh Mạng, đê càng được tôn cao và đắp mới, kéo dài về hạ lưu và các sông nhánh. Chiều dài đê Bắc Bộ được đắp mới thêm, trong hai triều đại đó, xấp xỉ với chiều dài đê cũ đã đắp trước đó. Cũng từ triều Nguyễn, chống lũ sông Hồng còn có thêm biện pháp khơi sông để thoát lũ, phối hợp với đắp đê. Về kỹ thuật đắp đê cũng có thêm nhiều quy định chặt chẽ. Năm 1827, vua Minh Mạng đã cho đặt cột thuỷ chí ở một số bến sông, sử gọi là “khắc rõ thước tấc, để nghiệm nước lụt lên xuống”, và đặt một tổ chức ngang cấp Bộ (Thượng Thư) để trông coi về đắp đê và phòng lụt sông Hồng, gọi là Đê chính Bắc Thành”, do một quan “nhị phẩm” đứng đầu.
Các Vua đầu triều Nguyễn đều đánh giá rất cao vai trò thoát lũ của sống Đuống. Năm 1810, Gia Long cho khai vét mở rộng. Minh Mạng còn cho đào thêm một số sông như Cửu An (về sau lấp bỏ cửa vào) và có thể cả sông Luộc. Năm 1859, Hiệp lý Đê chính Bắc Thành (quan phó phụ trách kỹ thuật) Nguyễn Tư Giản, đã đề nghị một kế hoạch cải tạo toàn bộ con sông Đuống, như thay đổi và mở rộng cửa vào, khơi đào và nắn thẳng những đoạn sông bị cong bị bồi lấp, v.v… để dòng chảy được thông thuận. Sau khi được phê duyệt, ông là người trực tiếp chỉ huy thực hiện. Từ đó đến nay, sông Đuống không còn phải khơi đào. Các kỹ sư danh tiếng người Pháp, lúc mới sang Việt Nam , đã đánh giá là sông có chế độ dòng chảy tốt nhất và ổn định nhất, “không thể làm cho nó tốt hơn nữa và đặt tên là “kênh đào của ghềnh thác” (Canal des Rapides) sông Luộc đặt tên là Kênh Tre (Canal des Bamboo). Kỷ luật và pháp luật đắp đê, quản lý đê, hộ đê, v.v. nghiêm khắc đến mức tàn bạo, từ đánh 50 gậy đến tử hình.
Nhưng tại sao dưới Vương triều Nguyễn, đê Bắc Bộ lại vỡ đến mức kỷ lục. Đê Văn Giang vỡ 18 năm liền.
Việc phát triển thêm đê ở hạ lưu và ở các phân lưu, là điều cần thiết, nhưng triều Nguyễn không có trình độ khoa học và công nghệ, để quy hoạch thống nhất độ cao trên toàn các tuyến như ngày nay. Đắp thêm đê, đương nhiên mức lũ trong sông sẽ dâng cao. Lấy ví dụ điểm đo lũ ở bến đò Tân Đệ (Thái Bình). Cùng một trận lũ có lưu lượng đỉnh lũ như nhau, trước năm 1884 mức lũ cao nhất ở đây không quá +1m, trước năm 1945 không quá +2m. Nhưng sau 1971 phải là trên +4m.
Sử nhà Nguyễn ghi nhận việc đắp thêm nhiều đê, nhưng không nói đến tôn cao đồng loạt hệ thống đê.
Theo đánh giá của các kỹ sư Pháp khi sang nước ta (1885), đê Bắc Bộ không đủ chiều cao toàn bộ, chống được mức lũ 9,50m tại Hà Nội.
Hoang mang trước nạn đê càng đắp càng vỡ, Gia Long hỏi ý kiến các quan lại Bắc Thành, Tự Đức thì trưng cầu ý kiến đến cả người dân cắt cỏ, là nên đắp đê tiếp tục hay nên phá hết đê đi, để khỏi vỡ đê. Phá bỏ đê lấy lý do trước thời Trần làm gì có đê, dân vẫn sống bình an. Vì đắp đê mới sinh tai nạn vỡ đê. Họ lý luận: nước lũ trong sông bị đê chặn lại như nước trong chén. Phá hết đê đi, đồng bằng rộng như như cái mâm, nước trong chén đổ ra mâm, mức ngập không đáng kể, đợi ít năm, phù sa bồi cao lên sẽ hết ngập.
Phe đắp đê nói rắng trước triều Trần dân số không đông, có thể lựa chọn chỗ cao mà ở, sản xuất một vụ cũng đủ ăn. Từ triều Trần đến nay, dân số ngày càng đông, không đắp đê thì lấy đất đâu để ở và cày cấy. Nói chờ bồi lắng thì biết đến bao giờ, những năm chờ bồi lắng, dân đi đâu mà ở, lấy thóc đâu mà ăn, mỗi năm triều đình mất đi 90 vạn hộc thóc thuế, lấy đâu bù vào, v.v.. vỡ đê tuy có thiệt hại, nhưng cũng chỉ một vài phương bất hạnh, còn đại cục vẫn giữ được, triều đình có thể chẩn cấp và không phải năm nào cũng vỡ. Cuối cùng nhà vua vẫn quyết định tiếp tục đắp đê.
Sau Hàng ước Patenôtre (1884), thực dân Pháp đặt ách thống trị lên toàn đất nước ta, thực dân Pháp biết được vấn đề lũ sông Hồng liên quan đến an ninh chính trị. Chúng đã điều sang nhiều kỹ sư trị thuỷ tài năng như: Normandin, Gauthier, Ronen. Sau thời gian nghiên cứu, họ thừa nhận các giải pháp triều Nguyễn đã thực hiện là có giá trị khoa học. Việc đầu tiên của họ là tôn cao và củng cố đê, để nâng lên mức bảo đảm lũ 11,50m tại Hà Nội, kết hợp với thoát lũ. Họ cho rằng đê sông Đuống, đắp chắp vá rất dễ bị vỡ, nếu vỡ thì nguy hại về kinh tế và xã hội còn lớn hơn nhiều lần, so với vỡ đê sông Hồng hạ lưu Hà Nội. Củng cố lại toàn bộ đê sông Đuống tốn quá nhiều tiền, mà cũng không thể nâng cao thêm khả năng thoát lũ. Họ quyết định lấp cửa sông Đuống và sẽ biến sông Đuống thành một đường phân lũ, có công trình như kiểu đập Đáy sau này. Mùa khô 1892-1893 họ đã đắp lấp cửa sông tại Quán Tình. Vụ lũ 1893 “Tràn Quý Tỵ”, đê toàn Bắc Bộ vỡ rất nhiều chỗ, đập lấp sông Đuống cũng trôi luôn. Từ đấy, họ lại quay về đắp đê và xây dựng một hành lang thoát lũ sang sông Cầu, qua Vĩnh Yên. Họ đã xây dựng một cống phân lũ 18 khung; mỗi khung rộng 10m trên đê tả ngạn, gần đối diện với cửa sông Đáy vào năm 1900. Phân lũ khá tốt trong các trận lũ: 1901-1904, nhưng dân Vĩnh Yên phản đối gay gắt, nên phải đắp đập.
Từ 1885 đến 1915, thực dân Pháp cũng chỉ thực hiện đắp đê nhỏ giọt, trong 30 năm chỉ đắp được 12 triệu m3 đê sông Hồng. Trận lũ 1915, ngoài việc vỡ đê, tàn phá toàn đồng bằng, riêng đê hữu ngạn, từ Liên Mạc đến Sơn Tây, bốn đoạn vỡ đi vỡ lại, bốn tỉnh Hà Đông, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình ngập lụt trong 3 tháng, dân chúng sống trên cây, trên nóc nhà. Vườn cây, gia súc, gia cầm bị tiêu diệt hoàn toàn.
Thảm cảnh đó được báo chí Việt Nam và bên Pháp mô tả và lên án, buộc nhà cầm quyền Đông Dương phải đưa ra bàn bạc kế hoạch trị thuỷ sông Hồng. Trước khi quyết định, họ lần lượt đưa ra phân tích từng giải pháp:
- Tái sinh rừng và bảo vệ rừng thượng nguồn. Rất hay về lý thuyết, nhưng không thực hiện được, chưa nói là ngày càng xấu đi.
- Xây dựng hồ chứa nước cắt lũ ở thượng nguồn. Chưa là được, phải vài ba chục năm sau mới có điều kiện.
- Tiếu thoát lũ sông Đà sang sông Mã, qua một đường hầm tại suốt Rút. Không những quá tốn tiền, phải mất hàng tỷ france mà mức nước sông Mã nơi đó, luôn luôn cao hơn nước sông Hồng kể cả mùa lũ.
- Dư luận rộ lên giải pháp phá bỏ hết đê, để gây bồi lắng. Các kỹ sư Pháp đã đo vẽ, tính toán và chính thức kết luận là vô lý, không thực hiện được. Nếu bỏ hết đê, hàng năm ở đồng bằng sẽ phải bỏ mất 50% diện tích vụ chiêm và 80% diện tích vụ mùa, không gieo cấy được, hàng triệu người phải dời chỗ ở. Thời gian chờ bồi lắng, lý thuyết là 60-80 năm, thực tế có thể phải mất nhiều thế kỷ.
- Xây dựng các khu chậm lũ ở trung du và các hành lang thoát lũ.
- Củng cố và tôn cao toàn hệ thống đê bảo đảm mức lũ cao nhất đã xảy ra.
Cuối cùng chính quyền thực dân đã chọn giải pháp tôn cao và củng cố đê, bảo đảm chống được lũ 12,50m tại Hà Nội và 5,60m tại Phả Lại và xây dựng đường thoát lũ qua sông Cà Lồ.
Việc xây dựng hành lang thoat lũ qua sông Cà Lồ thất bại. Việc tôn cao và củng cố đê, ì ạch mãi đến 1927 mới tương đối hoàn thành. Từ 1927 đến 1944, đê được củng cố và cũng nhờ lũ sông Hồng không lớn, nên đồng bằng Bắc Bộ không vỡ đê (Năm 1937 vỡ đê sông Đuống ở Mỹ Lộc là do sơ suất thiệt hại không đáng kể), không mất mùa do thiên tai.
Nạn chết đói 1945 trước khi Cách mạng thành công là do Pháp và Nhật, bắt bỏ lúa trồng đay ở Bắc Bộ và trồng lạc ở Thanh Nghệ Tĩnh, thu mua thóc bắt buộc và cấm vận gạo miền Nam ra miền Bắc; không liên quan gì đến mùa màng.
Tin tưởng một phần vào đê điều sau khi củng cố, người Pháp tiến hành xây đập Đáy (1937-1939), biên đường phân lưu thiên nhiên này thành đường phân lũ chủ động, chỉ mở đập khi lũ đã quá 11,50m ở Hà Nội mà vẫn tiếp tục lên. Dưới mức đó, đập Đáy đóng để sông Đáy làm trục tiêu úng cho 300.000 ha hữu ngạn. Năm 1941 và 1942, họ đã mở thử, tuy lũ chưa đến mức thiết kế, đều thất bại. Về nguyên nhân thất bại đang được bàn cãi.
Tháng 8 năm 1945, giữa lúc Cách mạng tháng Tám đang thành công thì lũ sông Hồng lên rất to. Ngày 17/8/1945đạt 11,86m tại Hà Nội. Mặt trận Việt Minh vừa chuẩn bị tổng khởi nghĩa 19/8, vừa tổ chức và chỉ huy toàn dân chống lụt hộ đê. Khi mở đập Đáy để phân lũ, bệnh cũ của đập tái phát nghiêm trọng hơn và thất bại hoàn toàn. Ngày 20/8/1945nước lũ mới đến 11,92m đê toàn Bắc Bộ liên tục vỡ. Ba ngày sau, bị vỡ 52 đoạn, tổng chiều dài lên đến 4500 mét. Toàn đồng bằng bị nhấn chìm trong lũ. Trận lũ tháng 8/1945 lớn nhất trong lịch sử từ xưa đến lúc đó. Nếu không vỡ đê sẽ lên tới 14,10m.
Tuy vỡ nhiều chỗ và lụt lớn như vậy, nhưng nhờ sự tổ chức chỉ huy và sự động viên của chính quyền Cách mạng, nên chỉ hai mươi ngày sau, toàn bộ đê đã được đắp lại, ruộng ngập được cấy tái giá, thu hoạch vụ mùa, giảm không đáng kể, không hề có dịch bệnh, không có ai chết đói. Đó là sự thật lịch sử. Sau khi lũ rút, tuy thù trong giặc ngoài, ngân khố trống rỗng. Bằng góp công, chỉ trong 6 tháng mùa khô, đê Bắc Bộ đã được đắp thêm 2.800.000m 3đất, đập Đáy được sửa chữa.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (12/1946 - 7/9/1954) đã làm gián đoạn mọi công việc đê điều Bắc Bộ, nhưng nhờ lũ thấp nên không vỡ đê.
Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, việc khôi phục và củng cố đê điều được đặt lên hàng đầu, nhất là đê Bắc Bộ. Từ 1955-1957, đã đắp thêm 37 triệu m 3đê, gấp gần 2 lần khối lượng đắp trong kế hoạch 1916-1936 của Pháp. Thả kè kết 64 vạn m 3đá. Tiếp theo là kế hoạch 1960-1965, đã đưa toàn hệ thống đê Bắc Bộ bảo đảm mức lũ 13,30m tại Hà Nội, 6,50m tại Phả Lại.
Song song với đắp đê, Đảng và Nhà nước đã cho thành lập Uỷ ban Trị thuỷ và Khai thác sông Hồng ( 16/1/1961), để chỉ đạo chung, còn toàn bộ công việc chuyên môn, giao cho Bộ Thuỷ lợi thường trực thực hiện.
Việc đầu tiên là xây dựng hồ Thác Bà trên sông Chảy, khởi công từ 1961, nhưng chiến tranh nên 1974 mới cắt lũ. Xây dựng hai khu chậm lũ: Tam Nông, Thanh Thuỷ (Phú Thọ) và khu chậm lũ Vân Cốc (Hà Tây).
Liên tiếp các năm 1968; 1969; 1970; 1971, lũ sông Hồng lên rất to. Năm 1971 đạt mức lũ lịch sử tính cho đến nay (2005). Năm 1969 lũ Hà Nội lên đến 13,22m không vỡ đê sông lớn, chỉ vỡ đê sông Phó Đáy, thiệt hại không đáng kể. Vụ lũ 1971 đỉnh lũ đo được 14,14m tại Hà Nội, lại xảy ra hai vụ vỡ đê rất đáng tiếc. Đê Nhất Trai trên sông Thái Bình, vỡ do người chỉ huy kỹ thuật kém xử lý sai kỹ thuật. Khi lũ xuống được hơn 20cm, lơ là cảnh giác, một dòng thâm lậu nhỏ không ai xử lý, đã vỡ đê Công Thôn, hữu ngạn sông Đuống, sát Hà Nội. Hai vụ vỡ đê này thiệt hạt vô cùng to lớn, lỗi lầm thuộc về con người, không phải tại đê.
Sau vụ lũ 1971, Đảng và Nhà nước ta càng quyết tâm hơn trong trị thuỷ sông Hồng. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của Bộ Thuỷ lợi, chính phủ Liên Xô đã giúp ta xây dựng hồ Hoà Bình; với nhiệm vụ ưu tiên số một là cắt lũ, các nhiệm vụ kết hợp là phát điện và cấp nước hạ du.
Ngoài ra còn cải tạo và mở rộng đập Đáy để tăng khả năng phân lũ.
Từ năm 1990, hồ Hoà Bình hoàn thành. Cho đến nay (2005) chưa có năm nào lũ lớn, chưa một lần được thử thách. Theo tính toán của các nhà khoa học, nếu gặp lại những trận lũ như 1969 và 1971, thế trận trị lũ như sau:
- Vì hồ Hoà Bình có dung tích cắt lũ 5,6 tỷ m 3trùng hoàn toàn với dung tích phát điện, nên trong mùa lũ, hồ Hoà Bình chỉ được giữ nước ở mức +85m, bỏ ngỏ hoàn toàn cho đê hạ du chịu đến mức lũ 11,50m tại Hà Nội. Nếu lũ lớn vẫn tiếp tục lên cao hơn, Thác Bà và Hòa Bình sẽ kết hợp cắt lũ. Gặp lũ như 1968 sẽ giữ được mức nước ở Hà Nội 12,35 mét gặp lũ năm 1971 sẽ giữ được nước ở Hà Nội 13,30 mét. Nếu gặp dạng lũ đặc biệt như 1969 hoặc lũ sông Đà quá lớn hoặc lũ tần suất cao hơn 1971, thì bắt buộc phải phân lũ sông Đáy.
- Để tránh phải phân lũ hoặc chậm lũ, thiệt hại kinh tế rất lớn, nên sau khi có hồ Hoà Bình, Nhà nước ta vẫn cho xúc tiến nghiên cứu xây dựng thêm hồ chứa nước trên thượng lưu sông Hồng.
Sông Thao không có khả năng xây dựng hồ chứa nước. Sông Chảy đã có hồ Thác Bà. Chỉ còn lại hồ Đại Thị trên sông Gâm, hồ Bắc Mục trên sông Lô. Trước đây, có phương án hồ Tuyên Quang, hay còn gọi là hồ Lô - Gâm. Nhưng nay thì hoàn toàn không thể, vì thiệt hại về ngập lòng hồ quá lớn. Trên sông Đà, thượng lưu Hoà Bình còn có rất nhiều vị trí làm hồ, có thể lựa chọn. Hoặc là chỉ một hồ Sơn La cao 265 mét (sẽ làm ngập hết vị trí các hồ khác). Hoặc là hồ Sơn La thấp, dưới 215 mét, sẽ còn làm thêm được một số hồ khác, như: Huổi Vai, Thác Lai, Hát Hin, v.v.
Với mục tiêu cắt lũ cho hạ du khi cùng bị tác động lũ của cả ba sông (Đà, Lô, Gâm), với những xác xuất tổ hợp khác đương nhiên cùng một lúc xây hồ trên cả ba con sông là an toàn nhất. Nhưng điều kiện kinh tế không cho phép. Chọn thêm một hồ trên sông nào để xây trước là điều cần phản cân nhắc. Khi đã chọn sông rồi thì quy mô hồ như thế nào là kinh tế kỹ thuật. Không thể giản đơn, cứ xây thật to, vét thật nhiều nước, cắt thật nhiều lũ là được. Quy mô hồ còn phải xét đến nhiều yếu tố kinh tế kỹ thuật. Riêng vấn đề cắt lũ, hiện nay hồ hoà bình đang bị hạn chế như đã nói ở trên. Nhưng nếu xây một hồ Sơn La thật to để cắt thật nhiều lũ cũng không cần thiết và không có tác dụng như mong muốn, vì hai sông kia còn bỏ ngỏ.
Nếu xác định chung tính cắt lũ của các hồ nói trên một cách khoa học và hợp lý thì theo các nhà khoa học thuỷ lợi tính toán, hiệu quả của kịch bản cắt lũ hạ du như sau, ngoài việc phối hợp với Hoà Bình và Thác Bà hiện có:
- Nếu chỉ thêm hồ Đại Thị trên sông Gâm và hồ Hoà Bình phải để mực nước trước lũ 4,7 tỷ m3, tức cao trình +88m, thì gặp lũ 8/1971, có thể giữ mức nước Hà Nội 12,50m (lũ sông Gâm lớn). Nếu lũ sông Đà lớn hơn 1971 hoặc hồ Hoà Bình nâng mức nước trước lũ +100m (để phát điện) thì mức nước Hà Nội sẽ lên đến 13,00m.
- Nếu chỉ thêm hồ Bắc Mục mà thôi thì trong cả hai trường hợp mức lũ Hà Nội sẽ tăng thêm 10 - 15cm so với Đại Thị.
- Nếu chỉ thêm một hồ Sơn La thấp như hiện nay, gặp lũ tháng 8/1971, mức lũ Hà Nội cũng sẽ lên đến 13,00m, dù dung tích cắt lũ có lớn hơn bao nhiêu đi nữa.
- Trường hợp có thêm hai hồ, Sơn La trên sông Đà và Đại Thị hoặc Bắc Mục trên sông Lô, nếu gặp các dạng lũ tháng 8/1971, sẽ giữ được mức nước Hà Nội 12,5m, dù tổ hợp lũ khác nhau. Nếu gặp lũ tần suất 0,1% ở Sơn Tây, sẽ giữ được mức lũ Hà Nội là 13,3m.
Kết quả nghiên cứu trên chứng tỏ, dù có xây dựng hết các hồ trong quy hoạch thượng nguồn thì cũng không thể “hốt trọn” lũ thượng nguồn, để cho đồng bằng không cần có đê như một số người lầm tưởng. Mức nước lũ mà hệ thống đê sông Hồng phải chịu đựng, còn lớn hơn báo động ba chừng hơn một mét. Không được lơ là tu bổ, quản lý hệ thống đê là điều bắt buộc, muôn đời đối với đồng bằng Bắc Bộ. Nếu chúng ta nhớ lại, mọi nạn vỡ đê Bắc Bộ đều xẩy ra dưới mức lũ 12 mét tại Hà Nội, vụ vỡ đê Mai Lâm 7/1957 xẩy ra lúc mức nước Hà Nội 8,5m, vẫn đủ sức nhấn chìm 6 huyện: Đông Anh, Yên Phong, Từ Sơn, Thị xã Bắc Ninh, Tiên Du và Quế Võ. Trận lũ 1986 ở mức lũ 12,35m Hà Nội, mà đã xảy ra vỡ đê ở Vân Cốc (sông Hồng) và vỡ đê sông Cầu, cùng hàng trăm sự cố nguy hiểm khác. Không phải có thêm hồ Sơn La là có thể ăn no ngủ kỹ với lũ sông Hồng.
Nguồn: Khoa học & Tổ quốc, kỳ 1 tháng 2/2006, tr 15 - 18