Vai trò của nhà nước trong việc đào tạo nghề - Nhìn từ góc độ kinh tế học
Quan hệ giữa nhà nước và đào tạo nghề
Sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết, nhiều ngoại ứng tiêu cực như: ô nhiễm môi trường, độc quyền, bất công... Vì vậy, trong hoạt động kinh tế của xã hội nói chung, nhà nước lúc này không chỉ đơn thuần thể hiện vai trò thu thuế hay cung cấp các dịch vụ quốc phòng, mà còn tích cực khắc phục những khuyết tật của nền kinh tế thị trường.
Một trong những vai trò của nhà nước trong việc khắc phục những khuyết tật của thị trường và đáp ứng nhu cầu chung của xã hội là chức năng cung cấp, đáp ứng nhu cầu về hàng hoá công cộng nhằm phục vụ lợi ích chung mà nhà nước theo đuổi và thông qua đó phục vụ công dân. Nhìn chung hàng hoá công do nhà nước cung cấp không phụ thuộc vào khả năng thanh toán của khách hàng tiêu dùng, tức là giá cả không đưa ra tín hiệu đúng cho điều chỉnh mặt cung. Về cơ bản, các loại hàng hoá công được cung ứng và sản xuất đều đảm bảo cho phép tất cả các thành viên xã hội cùng sử dụng, không cần phân chia khẩu phần, không phụ thuộc nhiều vào số lượng người tiêu dùng và khả năng tiêu dùng của người khác.
Có thể phân chia hàng hoá công do nhà nước cung cấp làm hai loại: một loại là hàng hoá công thuần tuý như: quốc phòng, chính quyền nhà nước, pháp luật có tính quốc gia, bảo vệ môi trường, giáo dục cơ sở và nghiên cứu khoa học cơ bản... và một loại là hàng hoá công không thuần tuý (tức là mang tính chất tư) như: cơ sở hạ tầng, sự nghiệp văn hoá, y tế, nghiên cứu ứng dụng khoa học, giáo dục đại học và giáo dục chuyên nghiệp...
Hàng hoá công thuần tuý có hai đặc tính: tính phi cạnh tranh trong tiêu dùng và tính phi loại trừ. Tính phi cạnh tranh là chỉ bất cứ sự tiêu dùng nào của bất kỳ cá nhân hay tập thể về loại hàng hoá đó đều không ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng của hàng hoá đó đến sự tiêu dùng của người khác, điều này có nghiã là chi phí cận biên của hàng hoá công thuần tuý cho việc có thêm một người sử dụng là bằng không. Căn cứ vào nguyên tắc định chi phí cận biên thì khi nhà nước cung cấp hàng hoá công thuần tuý cho xã hội thì không nên thu phí trực tiếp đối với người tiêu dùng. Mặt khác, nếu đem hàng hoá công thuần tuý để phân bổ tiêu dùng theo định suất hoặc hạn chế người sử dụng chúng thì giá thành là “cực đại” và dường như điều này không thể thực hiện được. Vì vậy, việc phân chia theo suất hay khẩu phần cho người tiêu dùng là không cần thiết đối với hàng hoá công thuần tuý, điều này có nghĩa là nhà nước khó có thể thông qua phương thức thu phí để đầu tư cho hàng hoá công thuần tuý, mà chỉ có thể thông qua việc thu thuế để bù đắp giá thành của nó.
Hàng hoá công không thuần tuý là loại hàng hoá vừa có tính chất của hàng hoá công thuần tuý vừa có tính chất của hàng hoá tư nhân thuần tuý, tức là nó có thể hội tụ không đủ hai tiêu chí nói trên hoặc sự kết hợp hai tiêu chí nói trên ở giới hạn nhất định (1), vừa có tính công cộng (tính lợi ích ngoại sinh), vừa có tính cạnh tranh và tính loại trừ. Tính công cộng và tính lợi ích ngoại sinh chứng tỏ trong một phạm vi nhất định, thị trường không thể cung cấp toàn bộ hàng hoá công không thuần tuý, hoặc nếu thị trường có cung cấp thì cũng không hiệu quả, do đó, đòi hỏi nhà nước phải tham gia vào quá trình cung cấp các loại hàng hoá đó. Điều này được lý giải như sau:
Nếu nhà nước sử dụng giá cả thị trường cho các hàng hoá công không thuần tuý, thì quá trình đào tạo nghề do khu vực tư nhân cung cấp sẽ không cần phải tính đến lợi ích ngoại sinh của đào tạo nghề, mà họ chỉ dựa vào giới hạn giá thành và lợi ích cận biên để làm căn cứ cung cấp và phục vụ. Điều này có nghĩa là họ không cần tính đến mức độ ảnh hưởng đối với xã hội, sự tốt, xấu đối với người học, mà hoàn toàn dựa vào các quy luật kinh tế để tính toán việc đào tạo. Nếu như vậy thì việc cung cấp dịch vụ đào tạo nghề về lượng sẽ thấp hơn so với nhu cầu tối ưu của xã hội, vì chi phí đào tạo mà người học phải trả là quá cao, từ đó sẽ tạo nên những tổn thất lớn về phúc lợi. Mặt khác, tính cạnh tranh của sự tiêu dùng hàng hoá công không thuần tuý chỉ rõ: sau khi vượt ra ngoài phạm vi nhất định thì giá thành cận biên của nó tuyệt đối không bằng không, vì nhất định phải do thị trường cung cấp thông qua việc thu phí, nếu không sẽ là cung cấp miễn phí, và như vậy sẽ dẫn đến sự tiêu thụ quá độ loại hàng hoá, dịch vụ này, và như vậy cũng tạo ra những tổn thất lớn về phúc lợi. Hơn nữa, do hàng hoá công không thuần tuý có đặc trưng là có tính biệt lập, vì vậy có căn cứ hiện thực cho việc thu phí đối với các hàng hoá đó.
Từ sự phân tích nêu trên có thể thấy, giáo dục nghề nghiệp là một loại hàng hoá công không thuần tuý, trong một phạm vi nhất định phải do nhà nước cung cấp miễn phí, giá thành của việc cung cấp đó có thể được bù đắp thông qua việc thu thuế, còn sau khi vượt quá phạm vi nhất định thì nên dựa trên nguyên tắc định giá thành cận biên của thị trường để cung cấp dịch vụ.
Chức năng của nhà nước đối với giáo dục nghề trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước đóng vai trò quan trọng nhất trong quản lý toàn bộ nền kinh tế và cung cấp hàng hoá cho xã hội (thông qua chủ thể của mình là các doanh nghiệp nhà nước, các cơ sở sản xuất thuộc sở hữu nhà nước). Tuy nhiên, tính chất quan trọng của nhà nước còn tuỳ thuộc tính chất của từng loại hàng hoá. Nếu là những loại hàng hoá tư nhân thì nhà nước không cần thiết phải trực tiếp sản xuất mà nên để thị trường cung cấp những loại hàng hoá này, vì hiệu quả kinh tế là thế mạnh của khu vực tư nhân. Hơn nữa, thông qua các chính sách khuyến khích đầu tư, ưu đãi thuế, quyền sử dụng đất, trợ cấp... nhà nước có thể hướng dòng tài chính dịch chuyển từ những ngành có năng suất biên thấp đến ngành có năng suất biên cao hơn, và nhiệm vụ sản xuất hàng hoá cho xã hội có thể đạt được hiệu quả bởi “bàn tay vô hình” tự điều tiết của thị trường (2).
Giáo dục nói chung và giáo dục nghề nói riêng là loại hàng hoá có nhiều bất đối xứng thông tin, có lợi ích ngoại sinh và là công cụ điều tiết thu nhập, vì vậy cơ chế kiểm soát chất lượng cũng như giá cả của nó phức tạp hơn nhiều. Chính điều này làm cho việc quản lý đối với hàng hoá này khó khăn hơn, nhà nước cần có những chính sách quản lý nó. Do mỗi quốc gia có những điều kiện về kinh tế, xã hội, lịch sử, văn hoá khác nhau, vì vậy, vai trò, chức năng của nhà nước trong việc thúc đẩy sự phát triển của ngành giáo dục nói chung và về đào tạo nghề nói riêng ở mỗi quốc gia là khác nhau. Tuy nhiên, nhìn chung Chính phủ mỗi quốc gia đều rất chú trọng phát triển và tìm cách phát huy tác dụng chủ đạo của sự nghiệp giáo dục, thể hiện ở 2 phương diện sau:
Thứ nhất, cung cấp kinh phí đào tạo. Căn cứ chi phí đào tạo đối với mỗi học sinh, nhà nước coi đó là một loại chi phí công chuẩn. Hầu hết các quốc gia có nền kinh tế thị trường, đối với kinh phí đào tạo nghề, nhà nước là người cung cấp chính. Ví dụ, ở Mỹ, trong những năm 90 của thế kỷ trước, các trường đại học cộng đồng công lập chiếm gần 2/3, còn lại hơn 1/3 là các trường dân lập. Nguồn kinh phí đào tạo của trường công lập chủ yếu lấy từ nguồn thuế của địa phương, nguồn ngân sách Chính phủ bang, nguồn tài trợ của Chính phủ liên bang, nguồn học phí của học sinh, ngoài ra còn từ nguồn trợ cấp xã hội của Chính phủ. Năm 1990, các trường dạy nghề công lập của bang Wisconsin (Mỹ) có cơ cấu nguồn kinh phí đào tạo: 45% từ thuế của địa phương, 20% từ ngân sách Chính phủ bang và liên bang, 10% từ thu học phí, phần còn lại là từ trợ cấp của xã hội và nguồn thu nhập từ quá trình sản xuất của nhà trường (3).
Thứ hai, quản lý và điều tiết quá trình phát triển lĩnh vực đào tạo nghề. Đối với lĩnh vực đào tạo nghề nói riêng và giáo dục nói chung, nhà nước cần có những chính sách quản lý hiệu quả nhằm phát triển ngành giáo dục và đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu phát triển của nền kinh tế - xã hội. Các biện pháp quản lý chủ yếu cần tập trung vào việc quy hoạch, xác lập hành lang pháp lý cho quá trình thu phí đào tạo, xây dựng và cung cấp những căn cứ kinh tế cho việc phát triển đào tạo nghề; lập ra những quy phạm và điều chỉnh các quan hệ giữa các ngành nghề và các loại hình đào tạo nghề; đổi mới các mục tiêu định hướng đào tạo nghề theo nhu cầu của thị trường và tiếp cận thị trường dựa trên nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai. Đối với thực tiễn Việt Nam hiện nay, để làm được các việc này, nhà nước nên là chủ thể chính trong đầu tư đáp ứng những đòi hỏi về nhu cầu nhân lực có trình độ tay nghề cao, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đặc biệt trong quá trình cạnh tranh và thu hút đầu tư nước ngoài, nhà nước cần đầu tư xây dựng, nâng cấp thêm nhiều trường dạy nghề chính quy từ bậc trung cấp nghề, cao đẳng nghề, chú trọng đào tạo đội ngũ nhân lực trình độ cao phục vụ nhu cầu phát triển của nền kinh tế. Các chính sách cần tập trung vào việc khuyến khích những người sử dụng lao động, các thành phần kinh tế tư nhân, tập thể, các tổ chức chính trị, xã hội, hiệp hội, đoàn thể tham gia vào quá trình đào tạo, đầu tư xây dựng các trường dạy nghề, thực hiện xã hội hoá giáo dục.
Xây dựng những quy định về trách nhiệm xã hội của các trường đào tạo nghề đối với sản phẩm đào tạo của mình; tăng cường mối quan hệ giữa trường đào tạo nghề với doanh nghiệp sử dụng lao động, bảo đảm tính hiệu quả của việc đào tạo được kéo dài, kế thừa đối với mỗi cá nhân người lao động. Xây dựng cơ cấu đào tạo nghề linh hoạt, nâng cao và bảo đảm chất lượng của việc đào tạo. Tiếp tục sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện pháp luật về dạy nghề vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, đảm bảo tất cả người lao động được đào tạo đáp ứng yêu cầu của đơn vị sử dụng lao động và xu thế phát triển của xã hội, vừa phát huy được sức mạnh tổng hợp của xã hội trong việc phát triển lĩnh vực đào tạo nghề trong nước cũng như quốc tế
Ghi chú:
(1) Dẫn theo Vũ Thanh Sơn: “Cạnh tranh đối với khu vực công: kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề của Việt Nam”, Luận án tiến sỹ, trang 17, Hà Nội 2007.
(2) Phạm Đức Chính, Vai trò quản lý của Nhà nước trong giáo dục đại học - Góc nhìn từ lý thuyết kinh tế học, Kỷ yếu hội thảo quốc tế “Chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong tiến trình đổi mới giáo dục” Hà Nội 9, 10/12/2009.
(3) Trương Hương Cần, Dương Kim Tinh (Trung Quốc): “Nhà nước và Giáo dục trong nền kinh tế thị trường”, Tạp chí thông tin Giáo dục, số 1 năm 2001, trang 12.
(*) Khoa Quản lý giáo dục, trường Đại học giáo dục, Đại học quốc gia Hà Nội
(**) Học viên cao học, trường Đại học Công nghệ Harbin, Trung Quốc








