Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất tôm sú giống
Với 2 trại sản xuất tôm sú giống tại Cần Thơ, Hậu Giang, trung bình mỗi năm Công ty TNHH Hải Đăng (ở thị xã Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng) cung cấp khoảng 30 triệu con giống sạch bệnh cho các trại nuôi tôm ở các tỉnh: Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Các mẫu tôm giống qua xét nghiệm đều đạt tiêu chuẩn chất lượng, rất ít tôm bị nhiễm bệnh. Do đó, tôm giống của công ty được nhiều bạn hàng tín nhiệm và đặt mua. Ông Nguyễn Kim Hưng, Giám đốc Công ty TNHH Hải Đăng, cho biết: “Từ năm 2003 đến nay, chúng tôi ứng dụng hệ thống lọc sinh học và máy cung cấp khí ozone để xử lý nước, diệt khuẩn trong bể ương nuôi. Nhờ đó, hiệu quả sản xuất và chất lượng tôm giống được nâng cao”. Không chỉ riêng Công ty TNHH Hải Đăng mà nhiều công ty, trại sản xuất tôm sú giống ở các tỉnh ĐBSCL có ứng dụng qui trình lọc sinh học hoặc xử lý ozone. Đây là tín hiệu đáng mừng trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất tôm giống.
Qui trình lọc sinh học là kết quả nghiên cứu của thạc sĩ Thạch Thanh và các cộng sự ở Trung tâm Ứng dụng và Chuyển giao Công nghệ Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Lọc sinh học giúp hạn chế việc thay nước và không sử dụng thuốc kháng sinh. Nhờ đó, tỷ lệ sống của ấu trùng cao và ổn định, tôm giống có chất lượng cao hơn. Nguyên lý hoạt động của hệ thống lọc sinh học là nước từ các bể ương nói chung được thay liên tục, đi qua các bể lọc nhờ các tác nhân sinh học (vi khuẩn) sẽ biến các hợp chất chứa ammonia (NH3 độc) thành nitrate (NO3 không độc) và quay lại bể ương. Do đó, chỉ cần một lượng nước nhất định cho suốt chu kỳ ương nuôi. Qui trình được hoàn thành năm 1999 và bắt đầu chuyển giao năm 2001.
Sử dụng ozone có tác dụng làm giảm mật độ vi khuẩn trong bể ương tôm và ương ấu trùng, giúp giảm bệnh và tăng tỷ lệ sống của ấu trùng. Ứng dụng ozone trong nuôi trồng thủy sản được xem là giải pháp hữu hiệu cho việc xử lý nước cũng như diệt khuẩn trên ấu trùng tôm, nhằm nâng cao chất lượng tôm giống. Kết quả nghiên cứu “Ứng dụng ozone xử lý nước và vi khuẩn Vibrio spp. trong bể ương ấu trùng tôm sú” của kỹ sư Tạ Văn Phương và các cộng sự ở Bộ môn Thủy sinh học ứng dụng, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, cho thấy: Ozone cải thiện chất lượng nước trong ương nuôi thủy sản, làm giảm và hạn chế những chất không có lợi cho môi trường nước. Dùng ozone xử lý mầm bệnh trong nước với thời gian ngắn 5 phút ở nồng độ 0,045 ppm có thể làm giảm mật độ tổng vi khuẩn 91,7% và 81% vi khuẩn Vibrio...
Một trong những yếu tố cơ bản của việc ứng dụng ozone vào khử trùng nước trong sản xuất tôm sú là xác định nồng độ ozone thích hợp để xử lý nước và mầm bệnh trong bể ương ấu trùng mà không ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển của chúng. Do đó, Tiến sĩ Trương Quốc Phú cùng các cộng sự Khoa Thủy sản đã thực hiện các thí nghiệm để xác định cụ thể nồng độ ozone thích hợp cho từng giai đoạn ấu trùng và hậu ấu trùng tôm sú. Kết quả cho thấy, ở hàm lượng ozone hoàn toàn thích hợp, ấu trùng sinh trưởng tốt hơn ở thí nghiệm không sục ozone. Nghiên cứu này giúp ứng dụng ozone hiệu quả hơn trong việc nâng cao năng suất và chất lượng tôm giống. Tiến sĩ Trương Quốc Phú, Phó Trưởng Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, cho biết: “Cán bộ của khoa luôn nỗ lực nghiên cứu để đưa ra những kỹ thuật mới giúp nâng cao chất lượng tôm sú giống. Hệ thống lọc sinh học và xử lý ozone là những kỹ thuật được ứng dụng phổ biến hiện nay. Những nghiên cứu khác đang ở mức độ thí nghiệm và cải tiến. Mới đây, Thạc sĩ Thạch Thanh và các cộng sự đã nghiên cứu thành công về nước biển nhân tạo, có thể dùng trong ương ấu trùng tôm sú và có khả năng ứng dụng vào sản xuất rộng rãi cho các vùng xa biển hoặc vùng có độ mặn thấp”.
Hiện nay, do các trại sản xuất giống có khuynh hướng phát triển ở khu vực xa biển nên sử dụng chủ yếu là nước biển hoặc nước ót để pha chế nước ương nuôi tôm sú giống. Cách làm này có giá thành cao và đôi khi thiếu hụt, nhất là trong mùa mưa. Do đó, nghiên cứu giải pháp chủ động nguồn nước cho sản xuất giống là một yêu cầu cấp thiết cho nghề nuôi tôm ở ViệtNamnói chung và ĐBSCL nói riêng. Thạc sĩ Thạch Thanh và các cộng sự ở Trung tâm Ứng dụng và Chuyển giao Công nghệ Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, đã thực hiện thành công đề tài cấp Bộ: “Nghiên cứu ứng dụng nước biển nhân tạo trong sản xuất giống tôm sú qua hệ thống lọc sinh học tuần hoàn”.
Nước biển nhân tạo (NBNT) được pha chế từ các hóa chất công nghiệp và muối tự nhiên (NaCl) với nước ngọt. Dựa trên công thức NBNT của Dietrich, G.,.Kalle (1963), gọi là công thức D&K, nhóm nghiên cứu đã cải tiến bằng cách không sử dụng một số muối vi lượng, tạo ra NBNT theo công thức D&K cải tiến. Qua các thí nghiệm, nhóm nghiên cứu đã xác định: việc pha thêm vào nước biển 50%-75% NBNT theo công thức D&K cải tiến cho kết quả tốt nhất về tỷ lệ sống, độ tăng trưởng, chất lượng giống và hiệu quả kinh tế. Thạc sĩ Thạch Thanh, chủ nhiệm đề tài, cho biết: “Trong thành phần của nước ót pha với nước ngọt hay NBNT 100% đều còn thiếu hay thừa vài loại hóa chất nào đó nên chưa phải là nguồn nước tốt nhất cho sản xuất tôm sú giống. Nhưng khi pha thêm 50-75% NBNT theo công thức D&K cải tiến thì 2 nguồn nước này bổ sung cho nhau tạo thành nguồn nước thích hợp cho ương ấu trùng tôm sú”. Đề tài được Hội đồng nghiệm thu cấp Bộ đánh giá loại xuất sắc cuối năm 2005, được xem là giải pháp khắc phục tình trạng nồng độ muối thấp vào mùa mưa, không có đủ điều kiện vận chuyển nước biển hoặc không có nước ót để sử dụng đối với những trại sản xuất giống tôm sú, đồng thời hạn chế được dịch bệnh trong sản xuất giống tôm sú.
Theo Thạc sĩ Thạch Thanh, do NBNT theo công thức D&K cải tiến có giá thành cao hơn nước biển một chút (87.821 đồng/m3 so với 86.320 đồng/m3) và nhu cầu sử dụng NBNT chưa cao nên hiện nay, kết quả nghiên cứu chưa được ứng dụng rộng rãi vào thực tế sản xuất. Tuy nhiên, trong thời gian tới, khi các trại sản xuất giống gặp khó khăn về nguồn nước như: chi phí vận chuyển nước biển tăng cao, nồng độ muối trong nước thấp, các vùng xa biển thiếu nguồn nước mặn... thì NBNT với những lợi ích thiết thực sẽ là một giải pháp hữu ích, đáp ứng được nhu cầu của các trại sản xuất tôm giống ở ĐBSCL.
Ngoài hệ thống lọc sinh học, ozone, nước biển nhân tạo, các cán bộ của Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ đang tiến hành nhiều nghiên cứu để nâng cao chất lượng tôm sú giống và tôm thương phẩm như: ảnh hưởng của chế độ thay nước, mưa axít, việc sử dụng hóa chất, thức ăn... trong quá trình ương, nuôi; cách phòng và trị bệnh đốm trắng, bệnh còi trên tôm sú. Đặc biệt, khoa đang thử nghiệm nuôi tôm sú bố mẹ trong bể nuôi được bảo đảm các điều kiện thay vì nuôi tự nhiên trong ao, đầm như trước đây. Cách làm này nhằm ngăn ngừa tôm bố mẹ bị nhiễm bệnh và lây sang ấu trùng, hạn chế tỷ lệ nhiễm bệnh của tôm giống. Những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học sẽ góp phần thúc đẩy công nghệ nuôi tôm sú ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.
Nguồn: baocantho.com.vn1/7/2006








