Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 21/07/2006 23:21 (GMT+7)

Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật trong sản xuất tôm sú giống

Với 2 trại sản xuất tôm sú giống tại Cần Thơ, Hậu Giang, trung bình mỗi năm Công ty TNHH Hải Đăng (ở thị xã Sóc Trăng, tỉnh Sóc Trăng) cung cấp khoảng 30 triệu con giống sạch bệnh cho các trại nuôi tôm ở các tỉnh: Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau. Các mẫu tôm giống qua xét nghiệm đều đạt tiêu chuẩn chất lượng, rất ít tôm bị nhiễm bệnh. Do đó, tôm giống của công ty được nhiều bạn hàng tín nhiệm và đặt mua. Ông Nguyễn Kim Hưng, Giám đốc Công ty TNHH Hải Đăng, cho biết: “Từ năm 2003 đến nay, chúng tôi ứng dụng hệ thống lọc sinh học và máy cung cấp khí ozone để xử lý nước, diệt khuẩn trong bể ương nuôi. Nhờ đó, hiệu quả sản xuất và chất lượng tôm giống được nâng cao”. Không chỉ riêng Công ty TNHH Hải Đăng mà nhiều công ty, trại sản xuất tôm sú giống ở các tỉnh ĐBSCL có ứng dụng qui trình lọc sinh học hoặc xử lý ozone. Đây là tín hiệu đáng mừng trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất tôm giống.

Qui trình lọc sinh học là kết quả nghiên cứu của thạc sĩ Thạch Thanh và các cộng sự ở Trung tâm Ứng dụng và Chuyển giao Công nghệ Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ. Lọc sinh học giúp hạn chế việc thay nước và không sử dụng thuốc kháng sinh. Nhờ đó, tỷ lệ sống của ấu trùng cao và ổn định, tôm giống có chất lượng cao hơn. Nguyên lý hoạt động của hệ thống lọc sinh học là nước từ các bể ương nói chung được thay liên tục, đi qua các bể lọc nhờ các tác nhân sinh học (vi khuẩn) sẽ biến các hợp chất chứa ammonia (NH3 độc) thành nitrate (NO3 không độc) và quay lại bể ương. Do đó, chỉ cần một lượng nước nhất định cho suốt chu kỳ ương nuôi. Qui trình được hoàn thành năm 1999 và bắt đầu chuyển giao năm 2001.

Sử dụng ozone có tác dụng làm giảm mật độ vi khuẩn trong bể ương tôm và ương ấu trùng, giúp giảm bệnh và tăng tỷ lệ sống của ấu trùng. Ứng dụng ozone trong nuôi trồng thủy sản được xem là giải pháp hữu hiệu cho việc xử lý nước cũng như diệt khuẩn trên ấu trùng tôm, nhằm nâng cao chất lượng tôm giống. Kết quả nghiên cứu “Ứng dụng ozone xử lý nước và vi khuẩn Vibrio spp. trong bể ương ấu trùng tôm sú” của kỹ sư Tạ Văn Phương và các cộng sự ở Bộ môn Thủy sinh học ứng dụng, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, cho thấy: Ozone cải thiện chất lượng nước trong ương nuôi thủy sản, làm giảm và hạn chế những chất không có lợi cho môi trường nước. Dùng ozone xử lý mầm bệnh trong nước với thời gian ngắn 5 phút ở nồng độ 0,045 ppm có thể làm giảm mật độ tổng vi khuẩn 91,7% và 81% vi khuẩn Vibrio...

Một trong những yếu tố cơ bản của việc ứng dụng ozone vào khử trùng nước trong sản xuất tôm sú là xác định nồng độ ozone thích hợp để xử lý nước và mầm bệnh trong bể ương ấu trùng mà không ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển của chúng. Do đó, Tiến sĩ Trương Quốc Phú cùng các cộng sự Khoa Thủy sản đã thực hiện các thí nghiệm để xác định cụ thể nồng độ ozone thích hợp cho từng giai đoạn ấu trùng và hậu ấu trùng tôm sú. Kết quả cho thấy, ở hàm lượng ozone hoàn toàn thích hợp, ấu trùng sinh trưởng tốt hơn ở thí nghiệm không sục ozone. Nghiên cứu này giúp ứng dụng ozone hiệu quả hơn trong việc nâng cao năng suất và chất lượng tôm giống. Tiến sĩ Trương Quốc Phú, Phó Trưởng Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, cho biết: “Cán bộ của khoa luôn nỗ lực nghiên cứu để đưa ra những kỹ thuật mới giúp nâng cao chất lượng tôm sú giống. Hệ thống lọc sinh học và xử lý ozone là những kỹ thuật được ứng dụng phổ biến hiện nay. Những nghiên cứu khác đang ở mức độ thí nghiệm và cải tiến. Mới đây, Thạc sĩ Thạch Thanh và các cộng sự đã nghiên cứu thành công về nước biển nhân tạo, có thể dùng trong ương ấu trùng tôm sú và có khả năng ứng dụng vào sản xuất rộng rãi cho các vùng xa biển hoặc vùng có độ mặn thấp”.

Hiện nay, do các trại sản xuất giống có khuynh hướng phát triển ở khu vực xa biển nên sử dụng chủ yếu là nước biển hoặc nước ót để pha chế nước ương nuôi tôm sú giống. Cách làm này có giá thành cao và đôi khi thiếu hụt, nhất là trong mùa mưa. Do đó, nghiên cứu giải pháp chủ động nguồn nước cho sản xuất giống là một yêu cầu cấp thiết cho nghề nuôi tôm ở ViệtNamnói chung và ĐBSCL nói riêng. Thạc sĩ Thạch Thanh và các cộng sự ở Trung tâm Ứng dụng và Chuyển giao Công nghệ Thủy sản, Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ, đã thực hiện thành công đề tài cấp Bộ: “Nghiên cứu ứng dụng nước biển nhân tạo trong sản xuất giống tôm sú qua hệ thống lọc sinh học tuần hoàn”.

Nước biển nhân tạo (NBNT) được pha chế từ các hóa chất công nghiệp và muối tự nhiên (NaCl) với nước ngọt. Dựa trên công thức NBNT của Dietrich, G.,.Kalle (1963), gọi là công thức D&K, nhóm nghiên cứu đã cải tiến bằng cách không sử dụng một số muối vi lượng, tạo ra NBNT theo công thức D&K cải tiến. Qua các thí nghiệm, nhóm nghiên cứu đã xác định: việc pha thêm vào nước biển 50%-75% NBNT theo công thức D&K cải tiến cho kết quả tốt nhất về tỷ lệ sống, độ tăng trưởng, chất lượng giống và hiệu quả kinh tế. Thạc sĩ Thạch Thanh, chủ nhiệm đề tài, cho biết: “Trong thành phần của nước ót pha với nước ngọt hay NBNT 100% đều còn thiếu hay thừa vài loại hóa chất nào đó nên chưa phải là nguồn nước tốt nhất cho sản xuất tôm sú giống. Nhưng khi pha thêm 50-75% NBNT theo công thức D&K cải tiến thì 2 nguồn nước này bổ sung cho nhau tạo thành nguồn nước thích hợp cho ương ấu trùng tôm sú”. Đề tài được Hội đồng nghiệm thu cấp Bộ đánh giá loại xuất sắc cuối năm 2005, được xem là giải pháp khắc phục tình trạng nồng độ muối thấp vào mùa mưa, không có đủ điều kiện vận chuyển nước biển hoặc không có nước ót để sử dụng đối với những trại sản xuất giống tôm sú, đồng thời hạn chế được dịch bệnh trong sản xuất giống tôm sú.

Theo Thạc sĩ Thạch Thanh, do NBNT theo công thức D&K cải tiến có giá thành cao hơn nước biển một chút (87.821 đồng/m3 so với 86.320 đồng/m3) và nhu cầu sử dụng NBNT chưa cao nên hiện nay, kết quả nghiên cứu chưa được ứng dụng rộng rãi vào thực tế sản xuất. Tuy nhiên, trong thời gian tới, khi các trại sản xuất giống gặp khó khăn về nguồn nước như: chi phí vận chuyển nước biển tăng cao, nồng độ muối trong nước thấp, các vùng xa biển thiếu nguồn nước mặn... thì NBNT với những lợi ích thiết thực sẽ là một giải pháp hữu ích, đáp ứng được nhu cầu của các trại sản xuất tôm giống ở ĐBSCL.

Ngoài hệ thống lọc sinh học, ozone, nước biển nhân tạo, các cán bộ của Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ đang tiến hành nhiều nghiên cứu để nâng cao chất lượng tôm sú giống và tôm thương phẩm như: ảnh hưởng của chế độ thay nước, mưa axít, việc sử dụng hóa chất, thức ăn... trong quá trình ương, nuôi; cách phòng và trị bệnh đốm trắng, bệnh còi trên tôm sú. Đặc biệt, khoa đang thử nghiệm nuôi tôm sú bố mẹ trong bể nuôi được bảo đảm các điều kiện thay vì nuôi tự nhiên trong ao, đầm như trước đây. Cách làm này nhằm ngăn ngừa tôm bố mẹ bị nhiễm bệnh và lây sang ấu trùng, hạn chế tỷ lệ nhiễm bệnh của tôm giống. Những công trình nghiên cứu của các nhà khoa học sẽ góp phần thúc đẩy công nghệ nuôi tôm sú ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.

Nguồn: baocantho.com.vn1/7/2006

Xem Thêm

Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học
Trong hai ngày 10-11/12, tại tỉnh Tuyên Quang, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) đã tổ chức Chương trình chia sẻ với chủ đề “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học”. Chương trình do PanNature phối hợp đồng chủ trì cùng Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tuyên Quang.
VUSTA chủ trì tổ chức Hội nghị Tổng kết hoạt động Cụm thi đua các tổ chức CT-XH và các tổ chức Liên hiệp năm 2025
Ngày 13/12, tại Vườn Quốc gia Cúc Phương (Ninh Bình), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã chủ trì tổ chức Hội nghị tổng kết hoạt động năm 2025 của Cụm thi đua các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức Liên hiệp.
Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam: Kiểm điểm, đánh giá chất lượng Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025
Ngày 12/12, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị kiểm điểm đối với tập thể, cá nhân Ban Chấp hành Đảng bộ năm 2025. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp hội Việt Nam chủ trì Hội nghị. Tham dự có đồng chí Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam cùng các đồng chí trong BCH Đảng bộ.