Tháng 2 năm 1961, nhóm máy cắt kim loại được thành lập và là 1 trong 3 nhóm kỹ thuật chuyên ngành của Bộ môn chế tạo máy thuộc khoa cơ khí và luyện kim, do KS Trịnh Văn Tự và sau đó là KS. Nguyễn Anh Tuấn phụ trách. Năm 1966 có quyết định chính thức thành lập Bộ môn máy cắt kim loại, là một trong ba bộ môn chuyên môn tách từ Bộ môn máy ra. Từ năm 1975 bước đầu xây dựng cơ sở thí nghiệm và nghiên cứu khoa học về ma sát học và vật liệu mới, đến năm 1976, GS Nguyễn Anh Tuấn giữ chức vụ Tổ trưởng Bộ môn. Từ năm 1986, trường ĐHBK Hà Nội tổ chức quản lý theo 2 cấp, Bộ môn máy cắt kim loại sáp nhập với Bộ môn dao cắt và mang tên Khoa máy và dụng cụ, GS Nguyễn Anh Tuấn được cử làm chủ nhiệm khoa. Sau nhiều lần sáp nhập, thay đổi đến năm 2001 bộ môn có tên mới là Máy và Ma sát học. Trong mỗi bước thăng trầm, phát triển, khẳng định hình của Bộ môn Máy và ma sát học đều có những đóng góp đầy tâm huyết, trí tuệ của những người thầy trong đó có GS Nguyễn Anh Tuấn. Ngành cơ khí dường như có cơ duyên đã theo sát ông trên mỗi con đường, ông kể lại một kỷ niệm khi được gặp Bác Hồ. Năm 1956 khi còn đang là lưu học sinh tại Trung Quốc, KS Nguyễn Anh Tuấn và ông Lê Thức cùng với một số lưu học sinh được gặp Bác Hồ tại Đại sứ quán Việt Nam ở Bắc Kinh, Bác Hồ có hỏi:
- Các cháu học ngành gì?
Ông trả lời: Thưa Bác, chúng cháu học cơ khí ạ.
- Cơ khí là gì?
- Thưa Bác, cơ khí là máy ạ
- Nếu thế phải gọi ngành máy chứ sao lại gọi là cơ khí?
Cũng từ đó, từ "Máy" không thể thiếu được khi gọi tên Khoa và bộ môn, và ông luôn luôn nghĩ rằng máy là nội dung quyết định và chủ yếu của cơ khí.
Năm 1963 ông được cử đi làm nghiên cứu sinh ở Đại học Máy công cụ và Dụng cụ Moskva Liên Xô. Trong ký ức của ông đáng nhớ nhất có lẽ giai đoạn này, nơi đây đã đánh dấu sự nghiệp nghiên cứu khoa học của ông. Tại đây, được các giáo sư, viện sĩ hàng đầu của Liên Xô dìu dắt, ông đã liên tục hoàn thành các chặng đường khoa học của mình với luận án Phó tiến sĩ, Tiến sĩ khoa học. Lúc này luận án nghiên cứu của ông liên quan nhiều đến khoa học vũ trụ, với các kết quả nghiên cứu mang lại nhiều lợi ích ứng dụng tại Nga, ông đã được Viện Hàn Lâm Khoa học Hàng không vũ trụ CHLB Nga bầu làm viện sĩ.
Khi ông còn đang học tập và nghiên cứu tại Nga, có lần Bộ trưởng Tạ Quang Bửu sang Moskva làm việc, ông được cử đi phiên dịch cho Bộ trưởng. Bộ trưởng đã nói với ông rằng: ở Việt Namhiện nay đã có Tiến sĩ khoa học về toán lý nhưng chưa có tiến sĩ khoa học về kỹ thuật, cho nên đồng chí nên tập trung bảo vệ luận án Tiến sĩ khoa học kỹ thuật. Và ông đã tập trung hoàn thành luận án Tiến sĩ khoa học của mình về khoa học kỹ thuật. Đến những năm đầu của thập kỷ 80 của thế kỷ trước, ông đã chuẩn bị làm thủ tục để đi trao đổi với trường Đại học Vật liệu và Chế tạo máy Paris với tư cách giáo sư thỉnh giảng song gặp khó khăn do tình hình cấm vận không nhiều người đi sang các nước tư bản. Lúc đó GS Tạ Quang Bửu đã thôi chức Bộ trưởng Bộ Đại học và THCN đã gửi một lá thư cho Giáo sư Henry Morten, Chủ tịch Liên hiệp hữu nghị khoa học Việt - Pháp để giới thiệu ông với các nhà khoa học Pháp. Những ngày sau đó, chương trình làm việc ở Pháp đã thuận lợi hơn rất nhiều và được bổ sung sắp xếp thêm nhờ sự tận tình của GS Henry.
Sự nghiệp nghiên cứu khoa học của ông đã ghi những dấu ấn khó phai nhạt đối với nhiều cán bộ giảng dạy, các sinh viên cơ khí. Hàng loạt các công trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu của ông như kỹ thuật ma sát, bào mòn và bôi trơn, nâng cao tuổi thọ thiết bị trong khí hậu nhiệt đớt; công nghệ bề mặt cho các chi tiết máy; công nghệ và máy công cụ gia công chính xác... hiện vẫn là những tư liệu quý để tham khảo, nghiên cứu. Ông còn tích cực tham gia những hội thảo khoa học quốc tế, được mời thỉnh giảng ở nhiều nước như Liên bang Nga, Pháp, Trung Quốc, Ba Lan... từ năm 1988 đến 2004, ông là Phó chủ tịch Hội cơ khí Việt Nam, Phó chủ tịch hội ma sát học quốc tế. Vì thường xuyên được tham dự các Hội thảo quốc tế nên ông có nhiều cơ hội tiếp xúc và năm bắt nhanh được những công nghệ mới của thế giới. Điều quan trọng là từ những công nghệ mới đó, ông đã nghiên cứu ứng dụng thành công vào thực tiễn của Việt Nam . Đặc biệt là công trình nghiên cứu "ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới đối với tính năng ma sát bào mòn của vật liệu Việt Nam " không những có giá trị trong nước mà còn được thế giới quan tâm và đánh giá cao.
Mặc dù đã ở tuổi 70 nhưng ông vẫn không ngừng làm việc, hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho các thế hệ sinh viên, giảng viên, nghiên cứu sinh... TS Phạm Văn Hùng (Phó trưởng khoa Cơ khí), ThS Lê Đức Bảo (Bộ môn máy và ma sát học) cho biết: Khoa cơ khí phát triển được như ngày hôm nay là nhờ sự dẫn dắt tận tụy của GS Nguyễn Anh Tuấn, GS luôn sát cánh tạo điều kiện cho các học trò, đồng nghiệp trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy. Ý kiến của thầy dù bất cứ lúc nào vẫn còn nguyên giá trị và hết sức quý báu đối với chúng tôi.
Ngày 17/12/2004, GS. TSKH Nguyễn Anh Tuấn (nguyên trưởng khoa Cơ khí ĐHBK Hà Nội) đã vinh dự là người Việt Nam đầu tiên được bầu làm Viện sĩ Hàn lâm Công nghệ và Viện sĩ viện hàng không vũ trụ Liên bang Nga. Đây là hai Viện hàn lâm có uy tín trên trường quốc tế. Đây quả thực là một vinh dự quý giá đối với ông, với ngành cơ khí Việt Nam, phần thưởng chính là sự ghi nhận những tâm huyết và trí tuệ của ông cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ của nước ta trong hơn nửa thế kỷ quả. Khoa học cơ khí gắn bó suốt cuộc đời ông, đó cũng là lĩnh vực mà ông trăn trở, luôn khát khao để ngành cơ khí nước ta thực sự có trình độ sánh vai cùng các nước có nền công nghiệp phát triển, ông thường tâm nguyện: "Nội hàm công nghệ chế tạo hiện đại, trong đó có chế tạo cơ khí ở mỗi nước, mỗi thời điểm khác nhau. Cho nên Nhà nước ta phải có đường lối KHCN về cơ khí của ta, bước đi lộ trình của ta để ngành trở thành cơ sở thực sự cho sự phát triển kinh tế, nhưng để làm được điều đó, một vấn đề cần phải đặt ra là cái gì sẽ quyết định điều này. Và không ai khác đó chính là con người. Chúng ta phải tập trung xây dựng đội ngũ chuyên gia, kỹ sư, công nhân có chuyên môn, tay nghề giỏi để tiếp nhận được những công nghệ mới và có khả năng sáng tạo.
Cách đây không lâu, tháng 12 năm 2006, công trình khoa học mà ông thực hiện cuối cùng là Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KC.05.21 "Nghiên cứu ứng dụng công nghệ mạ xoa để phục hồi và nâng cao tính chịu mòn cho chi tiết máy" đã được Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ trao bằng khen có giá trị cao về khoa học công nghệ với chứng nhận là kết quả nổi bật trong nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ giai đoạn 2001 - 2005.
Đề tài này đã được đánh giá là một công trình nghiên cứu khoa học có giá trị thực tiễn, với kết quả nghiên cứu này, Việt Nam đã có thể chủ động xây dựng công nghệ phục vụ mạ xoa và một phần dung dịch mạ xoa, tiến tới chuyển giao công nghệ và thiết bị mạ xoa cho các cơ sở sản xuất của ngành kinh tế quốc dân. Đây là lần đầu tiên Việt Nam xây dựng cho mình công nghệ mạ xoa và thỏa mãn những yêu cầu kỹ thuật khắt khe nhất, ứng dụng công nghệ này sẽ giúp cho việc phục hồi chi tiết các dạng khác nhau (lỗ, trục, phẳng...) cho nhiều ngành điện, than, xi măng, đường sắt...
So sánh với các phương pháp ngoại nhập, trình độ nghiên cứu của công nghệ mạ xoa tương đương với trình độ của Mỹ, CHLB Đức, Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản. Các sản phẩm của đề tài hoàn toàn có thể thay thế được các sản phẩm nhập ngoại đồng thời giảm được thời gian thực hiện và các chi phí đầu tư, đặc biệt trong công việc xây dựng quy trình công nghệ và triển khai trong thực tế.
Đề tài đã mang lại hiệu quả Kinh tế - xã hội cao có thể kể ra đây như: đã ký hợp đồng phục hồi cổ trục bằng công nghệ mạ xoa với Công ty Gạch ốp lát Hà Nội; ký hợp đồng phục hồi trục bằng công nghệ mạ xoa với Công ty xi măng Bỉm Sơn; ký hợp đồng kinh tế chuyển giao công nghệ với cty TNHH Cơ khí Tâm Sinh Nghĩa Tp. Hồ Chí minh với tổng giá trị hợp đồng là 500 triệu đồng.
Bên cạnh đó đề tài còn ứng dụng tại một số cơ sở sản xuất, viện nghiên cứu khác như Công ty Diesel Sông Công, Viện nghiên cứu cơ khí, Xí nghiệp đầu máy Hà Nội, nhà máy xi măng X18; Nhà máy cơ khí trung tâm Vietsovpetro, Công ty Formach, nghiên cứư mạ thực nghiệm phục hồi các chi tiết chịu mài mòn của tàu thủy: trục cơ, xi lanh, van... tại các nhà máy đóng tàu và sửa chữa tàu biển của Tập đoàn Vinashin; kết hợp nghiên cứu mạ thực nghiệm phục hồi chống ăn mòn cột chống lò và các chi tiết chịu mài mòn của ngành khai thác mỏ... Qua việc ứng dụng kết quả nghiên cứu của đề tài có thể khẳng định rằng công nghệ mạ xoa đặc biệt hiệu quả khi phục hồi các chi tiết máy lớn tại hiện trường, thời gian phục hồi nhanh hơn rất nhiều so với chế tạo mới hoặc đặt mua thay thế.
Sự ra đi đột ngột của ông đã để lại trong mỗi người niềm thương tiếc, và trân trọng những gì mà ông để lại cho ngành cơ khí Việt Nam . Đối với các thế hệ sinh viên đã được ông trực tiếp giảng dạy, hay các lớp sinh viên sau này, cuộc đời nghiên cứu khoa học tận tụy, nghiêm túc, phương pháp làm việc khoa học và những tâm huyết ông dành cho cơ khí của ông thực sự là một tấm gương, một sự động viên cho những phấn đấu không ngừng của những người làm cơ khí đất nước hôm nay và mai sau.
Nguồn: Cơ khí Việt Nam, số 1+2/2007, tr. 18 - 20 |