Tục thờ cây ở Việt Nam
Theo PGS Hòe, người Việt Nam luôn có thái độ sùng kính cây nhất là cổ thụ. Trong sâu thẳm văn hóa của người Việt vẫn có quan niệm về “thần cây đa, ma cây gạo, cú cáo cây đề”. Họ đặt bát hương dưới gốc cây, thậm chí xây cả miếu thờ “cụ” cây. Vào những dịp lễ hội của làng, nhiều nơi đặt mâm lễ cúng “cụ” cây có cả thủ lợn cạo trắng tinh, có làng thu hàng mấy chục triệu tiền công đức của khách thập phương cung tiến dành cho chăm sóc các “cụ” cây.
Theo PGS Hòe, hiện nay nhiều cây cổ thụ được Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam vinh danh là cây di sản Việt Nam có tuổi mấy trăm năm, thậm chí trên 2 ngàn năm vẫn xanh tươi, như cây lộc vừng tổ ở thôn Siêu Quần, xã phong Bình huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế được trồng từ thời vua Trần Anh Tông (khoảng năm 1306) khi lập làng. Sau đó trong thời gian từ năm 1400-1500 các cụ bắt đầu nhân giống trồng thêm lộc vừng trong làng.
Tại Chí Linh, Hải Dương có cây lim di sản ở Đền Cao, theo PGS Hòe cho biết, “cụ” cây nên Đền không đặt bát hương, hương được cắm thẳng xuống đất cạnh tấm bia vinh danh cây di sẩn Việt Nam do Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam cung tặng “để rễ của cụ cây có thể trực tiếp với lòng thành của người cúng”.
Tại Làng Phước Tích thuộc thôn Phước Phú, xã Phong Hòa, huyện Hương Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế được Nhà nước công nhận và trao bằng xếp hạng “Di tích quốc gia” làng cổ.
Làng cổ Phước Tích được thành lập vào khoảng thế kỷ 15, gần với thời gian mở mang bờ cõi về phương Nam của Nhà nước phong kiến Đại Việt. Vào thế kỷ 15 cư dân Việt vào vùng Hương Điền khai hoang lập làng đã bắt gặp cây thị khổng lồ, cành nhánh sum sê tỏa bóng, bên cạnh là miếu thờ của người bản địa. Dựa vào đặc trưng của miếu gắn liền với cây thị nên người Việt gọi là miếu Cây Thị để tỏ lòng thành kính. Dù đã nghìn năm tuổi nhưng cây thị bên miếu cành lá vẫn xanh tốt, xum xê, bộ rễ xù xì nổi lên mặt đất với những hình thù kỳ dị, thân cây to đến bảy tám người ôm không xuể. Tán lá đồ sộ che mát một khuôn viên rộng đến hàng chục mét vuông, dù trưa hè chói chang xung quanh miếu vẫn râm mát lạ thường. Mang trong mình nhiều giai thoại và các câu chuyện kể ly kỳ, cây thị đã trở thành một phần văn hóa gắn với người dân Phước Tích suốt bao đời nay. Tuy sống trên đất Cồn Dương suốt mấy trăm năm nay, nhưng cư dân Việt vẫn rất sợ miếu cây thị, một cành cây ngọn cỏ xung quanh khu vực đất miếu người dân cũng không dám giẫm đạp.
Đặc biệt của cây thị nghìn năm tuổi là bị rỗng ruột nhưng cành lá vẫn xum xê và sống khỏe, vẫn um tùm che bóng mát, và ra hoa kết trái tỏa hương ngào ngạt. Theo người dân Phước Tích truyền tai nhau rằng, vào mùa gió Nam, trái thị chín vàng sẽ theo gió rơi xuống sân miếu, ai muốn nhặt đem về nhà thì phải vào miếu xin. Mỗi mùa như vậy trên cây rơi xuống chưa đầy chục trái, vì vậy dân làng rất quý, khi đem thị về nhà thì cung kính mang lên bàn thờ chứ không ăn. Người gia, trẻ nhỏ trong làng đi ra đi vào hít hà hương quả thị để cầu mong sự chở che, bao bọc của thần miếu, thần cây.
Ngoài ra, theo PGS Hòe, Luật tục, hương ước các dân tộc trên dãy Trường Sơn không chỉ có giá trị tham khao trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng mà còn có thể gợi mở việc sử dụng luật tục, hương ước trên mọi lĩnh vực quản lý đời sống xã hội.
Cách đây không lâu, người dân Bố Trạch Quảng Bình trước khi vào rừng khai thác lâm sản đều phải làm lễ cúng để xin thần rừng. Họ chỉ khai thác đúng chủng loại và số lượng đã xin và được thần rừng cho phép. Luật tục Ê Đê quy định hình thức xử phạt rất nghiêm khắc với những ai phá rừng. Rừng không chỉ là nguồn sống của họ mà còn là cõi tâm linh thiêng liêng. Vì thế mà có Thần cây, Thần rừng, vì thế trước khi đi săn người ta phải cúng Thần rừng, trước khi chặt cây về làm ghế gài làm bằng cây gỗ liên người ta phải cúng Thần cây.
Nguồn tri thức bản địa M’nông Tây Nguyên là một kho tàng phong phú, sản phẩm của hàng ngàn năm biết sống bền vững với núi rừng. Bảo vệ nguồn nước và rừng đầu nguồn là điều quan trọng hàng đầu. Rừng đầu nguồn được gọi là Yang Bri, mọi hành động chặt cây ở rừng này hoặc gây cháy rừng đều được coi là trọng tội. Người M’nông không phát rẫy lớn, liền khoảnh mà bao giờ cũng chừa lại các khoảng cây xanh xen kẽ để chống xói mòn đất cũng như để dành làm nguyên liệu cho các nghề thủ công.
Người M’nông, tộc người được coi là cư dân đầu tiên có mặt trên địa bàn Đắk Lawsk có ý thức bảo vệ rừng nghiêm khắc. Từ ngàn xưa, cộng đồng M’nông đã lưu truyền các khoản quy định về tội làm cháy rừng như sau: “Chòi bị cháy chỉ một người buồn, nhà bị cháy cả buôn phải buồn, rừng bị cháy mọi người đều buồn… Rừng bị cháy mà không dập tắt, người đó sẽ không có rừng, người đó sẽ không có đất, làm nhà đừng dùng cây nữa, làm chòi đừng dùng cây nữa, làm rẫy không phát rừng nữa, khi thiếu đói đừng đào củ nữa, bảo nó cất chòi ở trên mặt trăng, bảo nó cất chòi ở trên ngôi sao, bảo nó tỉa lúa ở trên tầng mây”.
“Trong sâu thẳm văn hóa của các dân tộc Việt, không dân tộc nào không có những quy định về tôn kính cây cổ thụ và cây rừng. Người Việt nam cho cây là nơi thần linh trú ngụ, cho cổ thụ là thần. Nguyên nhân sâu xa có lẽ chính vì cây và rừng có vai trò rất lớn không thể thay thế trong bảo vệ môi trường, cung cấp nguồn sống cho con người, PGS Hòe cho biết.
Ngoài ra, cần phát huy niềm tin này vào sự nghiệp trồng và bảo vệ rừng, bảo vệ cây. Người dân cần niềm tin và công sức của họ được chính danh, cần có quyền, chứ không hẳn là cần Nhà nước hỗ trợ kinh phí cho sự nghiệp trồng cây và bảo vệ rừng.