Tục cưới hỏi của cư dân Mường ở Hoà Bình
Trước tiên là tục Kháo tienég (đi thăm dò, ướm hỏi).
Muốn nên vợ nên chồng phải có những cuộc tiếp xúc, giao duyên. Trai, gái thường gặp nhau vào những ngày hội, ngày phiên chợ, đám cưới, những buổi tối hát “thường đang”, “bọ mẹng” hoặc những hôm cùng nhau vui uống rượu cần, hẹn hò dưới gốc cây si vào những đêm trăng sáng. Trai từ làng này kéo sang làng khác tìm hiểu nhau là chính, song cũng vài đôi nam, nữ do bố mẹ xếp đặt, ưng nhau thì báo để gia đình làm các thủ tục hôn nhân.
Khi đã để ý một cô gái trong mường hoặc tự thấy con trai mình đẹp lứa vừa đôi với cô gái nào đó, gia đình nhà trai tìm một người khéo ăn nói trong mường, được nhà gái quí nể để làm ông mơ (ông mối), thay mặt gia đình nhà trai sang hỏi ý kiến nhà gái. Ông mối thường hay đi vào buổi tối ngày cây (theo lịch Mường) sang nhà gái dạm hỏi.
Ngày đầu tiên, không mang theo thứ gì, chỉ đặt vấn đề, đại ý: bác hay chú nhà bên ấy thấy cháu nhà ta được ý, được nết, cho tôi sang để hỏi xem ý bác, bà và cháu thế nào, có thương được bên ấy không. Ngày này, ông chủ nhà gái cũng chưa nói gì, chỉ từ tốn đáp rằng: Vâng, bác đặt vấn đề ấy, vợ chồng chúng tôi còn phải hỏi cháu đã. Nghe vậy, ông mới ra về.
Vài hôm sau, ông mối lại nhắc đến chuyện hôm trước. Ông chủ nhà gái lúc ấy nếu thuận tình sẽ nói: Biết lấy gì làm tin nhau bây giờ, hôm nào đó bác có ấm chè hay chai rượu, tôi với bác nói với nhau làm tin. Tôi đã hỏi cháu, nghe chừng có khả năng êm chuyện. Được tin đó, ông mối về nhà trai báo: Việc bác nhờ, bên ấy được tin, nghe đã thấy xuôi, nhưng “có gói mới nói nên lời”, bác kiếm cho tôi chai rượu hay ấm chè, tôi thử lần nữa xem sao. Thế là món “Kháo tiếng” bắt đầu.
Ngày này ông mối mang theo 2 chai rượu hoặc một đấu chè làm quà. Phía nhà gái thấy ông mối đến là niềm vui lớn cho gia đình. Tối hôm đó, bố mẹ bên nhà gái tổ chức một cuộc vui nhỏ, ông mối vừă uống rượu vừa thưa chuyện với gia đình. Kết thúc cuộc vui, chủ bên nhà gái có lời: Các bố, các mế (hoặc ông, bà) bên ấy muốn thương lấy con nhà tôi, xin rất cảm ơn, gia đình tôi đã hỏi ý cháu, cháu cũng đã nói theo quyền bố mẹ. Lúc bấy giờ nhà gái mới có lời cho ông mối hẹn nhà trai ngày, giờ “ti nôm bánh” cho cháu.
Ti nôm bánh(Đi bỏ trầu)
Chọn được ngày lành, tháng tốt, ông mối dẫn đoàn nhà trai (chừng 9, 10 người có đủ bên nội, bên ngoại nhà trai. Lúc ấy chú rể chưa đi) mang theo lễ vật gồm có một con lợn (chừng 20 - 25 kg), hai gánh gạo (chừng 40 - 50 kg), 125 cái bánh chưng, 2 buồng cau, 100 lá trầu. Tất cả cho vào chiếc sọt đan đẹp (gọi là đan khác). Tới nhà gái, sau khi gặp gỡ và ăn uống vui vẻ, đại diện nhà trai thưa chuyện trước, đại diện nhà gái đáp lại sau.
Sau cuộc “Ti nôm” ấy, nhà trai chuẩn bị lễ phẩm để lo cho ngày cưới. Trước hôm cưới ít ngày, nhà trai sắm lễ gồm rượu hoặc trầu cau để ông mối sang nhà gái xin cưới (goi là lễ Nòm khảu). Buổi này nhà gái thông báo chính thức cho nhà trai biết ngày, tháng nào sẽ cho cưới.
Để chuẩn bị đám cưới được chu đáo, nhà trai mời ông, bà bên nội, ngoại bàn việc đi xin tiền, xin gạo trong nội, ngoại xa gần. Khi đi quyên góp, nhà trai có mang quà, có thể là gói bánh hay gói chè biếu từng nhà. Thường chú, bác thân thuộc giúp cho một chón cơm và một đồng bạc cổ (1 chón cơm bằng 10 đấu gạo nếp); còn anh em, họ mạc tuỳ khả năng mà giúp đỡ.
Tiếp theo là Ti cháu(Lễ cưới lần thứ nhất).
Cuộc họp họ xong, lễ cưới chính thức được bắt đầu. Nhà trai mang sang nhà gái: 120 đấu gạo (khoảng 100 kg, một con lợn chừng 40 - 50 kg trở lên và một con lợn bé (gọi là lợn vào trồ), độ hai chục chai rượu, một buồng cau, 100 lá trầu, 2 đến 4 cây mía. Đoàn nhà trai có đủ nội, ngoại, bạn bè chừng ba, bốn chục người do ông mối dẫn đầu.
Chàng rể mặc quần áo đẹp, chít khăn trắng, gùi một chón cơm (khoảng 10 đấu gạo đã đồ chín), trên miệng chón cơm có để 2 con gà sống thiến đã được luộc chín. Còn hai chàng trai khác (một bên nội, một bên ngoại) cũng gùi 2 chón cơm, nhưng không có gà (gọi là đi piềng- chú rể).
Dù nhà gái ở gần hay xa, theo tục lệ “ti cháu, đắp trâu, ti du vàng mặt” - nghĩa là nhà trai đi cưới, rể đến nhà gái lúc trâu về chuồng (khoảng 5 giờ chiều) còn phải đợi lúc tối mặt người mới được đón dâu (khoảng 7 giờ tối). Nếu nhà trai đi sớm hơn cũng phải chờ tới giờ đó mới được lên thang. Đoàn nhà trai rửa chân xong, từng người lên nhà và ngồi theo thứ tự.
Lúc này, nhà gái chưa ra chào. Đợi khi khách vào hết, vị đại diện nhà gái mới bước từ gian trong ra chắp tay chào. Đại diện nhà trai cũng đứng dậy đáp lễ. Đáp lễ xong, ông mối vào trong, gặp vị đại diện chủ chốt nhà gái trao toàn bộ đồ lễ của nhà trai, sau đó quay ra khấn rượu, lúc này nhà gái đã chuẩn bị sẵn một chum hoặc 2 cảnh rượu cần, cắm cần sẵn để chờ khách. Ông mối khấn hoặc nhờ một người khác khấn xong thì mời họ hàng nhà trai uống rượu do vị chủ chốt nhà gái tiếp.
Quanh chum rượu cần, họ hàng nhà trai đứng phía ngoài, họ hàng nhà gái đứng phía trong, hai bên đứng dậy chào rượu. Lúc này cần rượu đã toả ra như bông hoa nhiều cánh, vị đại diện nhà trai từ tốn nói:
“Hôm nay ngày lành, tháng tốt/ Chúng tôi cho con về ăn nhờ cái cơm/ Mặc nhờ cái xống, cái áo/ Phận đạo làm tôi/ Để cho có con đứa, con cái/ Nhại nhại như đàn cúi vang (con lợn lang)/ Để cho con cái cầm cửa/ Để cho con đứa cầm nhà/ Để làm nên quyền cao, chức trọng/ Còn tốn kém có cảnh rượu, gáo nước/ Chụ chiếm (mới cho uống) anh em nhà chúng tôi xin cảm ơn”.
Vị đại diện họ nhà gái ân cần và khiêm tốn đáp lễ:
“Ơn các ông thương lấy con nhà mộng tôi/ Không chê đói, không chê khó/ Còn có khênh cơm uốn con cây mía/ Còn có khênh rượu uốn cong cây bương/ Của bà chào bà/ Không có cái gì nắm thả ở giữa/ Xin mời các ông”.
Nam giới uống trước, nữ giới uống sau và tiếp tục chia phe, chia ngàn (có nghĩa như là một lượt) thi nhau uống. Có trọng tài gọi là “chí chán”. Khi nào kết thúc tuần rượu bên nhà gái lại bê một cảnh mới ra - gọi là rượu “chu khoá”. Uống xong tuần rượu này mọi người đi ăn cơm. Trước lúc ăn phải khấn rượu, khấn thần đất (gọi là hướng mái).
Khi ngồi đã sắp đủ mâm, bát, khách chủ lại chào mời chúc tụng nhau. Mâm cửa voóngngoài dành cho họ nội, voónggiữa họ ngoại, còn ông mối ngồi đâu cũng được. Sau đó, người ta sắp một mâm riêng thịnh soạn, đáp lại ông mối. Cơm xong, khách chuẩn bị ra về, chủ nhà sắp một mâm chỉ có rượu và trầu cau gọi là “chao mang” - chúc chén rượu lần cuối tiễn khách.
Riêng chàng rể và hai phù rể còn ở lại nhà gái tiếp khách. Đến tối thứ ba nhà gái làm một bữa tiệc nhỏ gọi là “chụ chán” để tiếp rể. Sáng hôm sau, nhà gái chuẩn bị quà cáp cho rể lại nhà. Tục lệ của ngày cưới - “ti cháu” diễn ra như vậy.
Tuy nhiên, hôn nhân của người Mường ở Hoà Bình gần như quy định một hoặc vài năm sau mới được đón dâu! Trong thời gian ấy nhà gái có việc gì thì sang gọi chàng rể đến làm giúp và buổi tối lại ngủ ở gian ngoài, chưa được gần người vợ của mình.
Thời gian này cũng là giai đoạn thử thách của cô dâu - chú rể, họ có điều kiện nhận biết tính nết của nhau, hiểu đầy đủ hơn về người vợ, người chồng của mình. Nếu trong thời gian đó, bên trai hoặc bên gái có sơ suất điều gì, một trong hai bên có quyền khước từ hôn lễ, trả lại của cải cho nhau.
Cuối cùng là Ti du(lễ đón dâu).
Lễ đón dâu, mọi chi phí do nhà trai lo liệu. Đi đón dâu vào ngày nào, họ hàng nhà trai mang lễ vật đến mừng - chủ yếu là tiền, ngoài ra là vải tự dệt hay váy áo đã may sẵn. Ngày này, nhà gái cho mời khoảng từ 30 - 50 người, có đủ mặt họ nội, ngoại đi dưa dâu.
Ngày về nhà chồng, dù trời không nắng không mưa, cô dâu cũng phải đội nón, mặc váy áo đẹp, ngoài cùng là chiếc áo dài màu đen, thắt 2 nút ở phía trước. Có 2 người bên nội, bên ngoại cùng đi, gọi là “piềng dư”. Cô dâu mang về nhà chồng - dù khó khăn lắm cũng phải có 2 chiếc gối, còn thường là 2 cái chăn, 2 tấm đệm, 2 quả gối to để biếu bố mẹ chồng và hàng chục cái gối con để nhà trai biếu chú, bác, cô, gì ruột thịt.
Dẫn đầu đoàn nhà gái là ông mối và hai cô gái trẻ bên nhà trai sang đón dâu. Đoàn người về nhà vào lúc xẩm tối. Nhà trai đã chuẩn bị rượu cần, ông mối khấn rượu, khấn cơm, khấn bàn thờ tổ tiên, đưa cô dâu ra trình diện trước bàn thờ ma nhà. Cuộc vui, văn nghệ kéo dài thâu đêm, suốt sáng. Cô dâu và những người đi piềngở lại 3 ngày sau đó, nhà trai mới làm lễ để cho cô dâu về thăm lại bố mẹ đẻ.
Đón dâu về, trai gái chưa được chung chăn, chung gối ngay mà còn phải đi lại một thời gian, đôi khi phải hàng năm nữa. Khi cô dâu đã quen nếp ăn ở nhà chồng thì nhà trai chọn một bà phúc hậu, dễ nuôi con, đợi ngày lành, tháng tốt đến trải chiếu, căng màn cho đôi vợ chồng mới.
Khi ấy, chàng rể mới không còn phải “bù ma ruộng” - chấm dứt thời gian thử thách, nằm gian ngoài, để vào ngủ gian trong. Trai gái lúc này chính thức nên vợ, nên chồng. Nếu cho chung chăn, chung chiếu ở bên bố mẹ nhà gái - tức bên nhà mộng, thì chàng rể trước khi vào gian trong cần phải lạy bố mẹ vợ 3 lạy, y như xin phép.
Phong tục cưới hỏi như trên đã tồn tại lâu dài trong đời sống của người Mường ở Hoà Bình. Sau 1945 đã có nhiều thay đổi và ngày nay cùng với sự phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, các tục lệ mê tín đã mất dần cũng như các lễ vật quá tốn kém đã giảm bớt nhiều và thời gian chờ đợi thử thách vợ chồng chính thức không còn kéo dài như trước nữa.
Lễ cưới hỏi ngày nay đã gọn nhẹ, vui tươi, có sắc thái mới, mang tính thời dại, song vẫn giữ được những nét văn hoá truyền thống, đậm bản sắc dân tộc, như lòng thủy chung, sự giúp đỡ lẫn nhau trong họ tộc và làng bản; văn hoá rượu cần với những lời ca “thường đang, bọ mẹng”… cất lên đằm thắm trong những đám cưới ở các bản Mường ngày nay.