Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 19/03/2009 15:14 (GMT+7)

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh

Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình có truyền thống văn hoá, vừa có chất nho phong, vừa chịu ảnh hưởng của Duy Tân. Truyền thống của quê hương Nghệ - Tĩnh cũng có ảnh hưởng đến tư tưởng và tình cảm của Người. Những tấm gương chiến đấu, hy sinh của Mai Thúc Loan, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu… đã in đậm trong tâm trí của Người.

Là một người thông minh, hiếu học lại có tình cảm sâu nặng với đất nước và con người Việt Nam, Hồ Chí Minh rất chú trọng tìm hiểu và nghiên cứu truyền thống yêu nước và lòng nhân ái Việt Nam.

Do điều kiện địa lý và hoàn cảnh lịch sử, nhân dân ta phải liên tục đứng lên đấu tranh chống giặc ngoại xâm và khắc phục thiên tai. Quá trình đấu tranh là quá trình tôi luyện và hun đúc nên truyền thống của dân tộc. Đó là ý chí kiên cường và lòng dũng cảm, là tinh thần đoàn kết cộng đồng, là lòng nhân ái, khoan dung đặc biệt là coi trọng tình thương v.v… Những nét đặc sắc đó của truyền thống Việt Nam đã có ảnh hưởng rất rõ đối với việc hình thành tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh nghiên cứu những tư tưởng từ nhiều ngọn nguồn khác nhau và tiếp thu những nhân tố có giá trị trong tư tưởng nhân văn phương Đông, phương Tây.

Những tư tưởng coi trọng dân của Mạnh Tử “dân vi quý”, “dân vi bản” được Hồ Chí Minh tiếp thu và phát triển với ý nghĩa rất sâu sắc.

Nghiên cứu học thuyết của Khổng Tử, Hồ Chí Minh rút ra kết luận: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm là đề cao tu dưỡng rèn luyện đạo đức cá nhân1. Những khái niệm: trung, hiếu, nhân, nghĩa… của Nho giáo được Hồ Chí Minh tiếp thu và vận dụng với ý nghĩa, nội dung mới. Người cũng nghiên cứu, tiếp thu tư tưởng “từ bi bác ái” của Đức Phật, theo Người “Đức Phật là đại từ đại bi cứu khổ cứu nạn”.

Không chỉ nghiên cứu, tiếp thu tinh hoa văn hoá phương Đông, Hồ Chí Minh còn nghiên cứu tiếp thu những tư tưởng về nhân đạo, nhân quyền, dân chủ trong các trào lưu triết học và văn học nghệ thuật phương Tây. Về triết học đó là những tư tưởng của Vonte, của Điđơrô, v.v… nhằm chống lại chế độ quân chủ chuyên chế, vạch trần những tệ hại của xã hội phong kiến giày xéo, chà đạp các quyền tự do của con người. Về văn học nghệ thuật, Người đã rất thích thú khi đọc những tác phẩm của M. min Dôla, của Víchto Huygô của Xêcxpia, của Rútxô, v.v...Đó là những tác phẩm đề cao lòng nhân ái, đề cao tư tưởng tự do bình đẳng.

Những tư tưởng xem con người là trung tâm bắt đầu từ triết học cổ đại Hy Lạp, La Mã nổi lên là lòng nhân ái của Giêsu. Bác nói: “Tôn giáo của Giêsu có ưu điểm là lòng bác ái cao cả”.

Nhưng Hồ Chí Minh nghiên cứu tiếp thu có phê phán, kế thừa có chọn lọc. Người cũng chỉ ra những hạn chế của những tư tưởng trên: chỉ khuyên con người làm điều thiện nhưng chưa chỉ ra phương hướng đấu tranh với cái ác, hướng con người lên “thiên đường” nhưng lại lờ đi những lo toan vất vả của con người trong thực tại, xem con người là trung tâm nhưng lại đề cao thần thánh, tuyệt đối hoá vai trò của cá nhân, v.v…

Hồ Chí Minh tiếp thu những tư tưởng phương Đông, phương Tây nhưng đỉnh cao là chủ nghĩa Mác- Lênin. Và chính chủ nghĩa Mác -Lênin là nguồn gốc cơ bản quyết định đến việc hình thành và phát triển tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.

Chủ nghĩa Mác -Lênin quyết định việc hình thành thế giới quan, phương pháp luận mác xít. Đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh tiếp thu được “phương pháp làm việc biện chứng”, với phương pháp đó giúp cho Hồ Chí Minh xem xét đánh giá đúng những giá trị của truyền thống dân tộc và nhân loại. Xem xét và giải quyết tốt mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc với giai cấp, nhân loại, giữa truyền thống và hiện đại, hôm nay và ngày mai… Đồng thời với phương pháp làm việc biện chứng, giúp cho tư tưởng của Người luôn luôn có sự sáng tạo để phát huy hiệu quả, khi mà xã hội và con người đã có sự phát triển.

Điều quan trọng là chủ nghĩa Mác-Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Đó là lý tưởng giải phóng triệt để con người, sự nghiệp giải phóng con người không chỉ trông chờ ở thần thánh, vĩ nhân mà phải do chính con người đảm nhiệm, con người ở đây là quần chúng nhân dân. Lòng nhân ái không chỉ là rủ lòng thương hay vỗ về, an ủi với những người nghèo khổ mà phải trở thành hành động cách mạng. Sự nghiệp giải phóng những người bị áp bức, bóc lột ở các dân tộc thuộc địa được gắn với sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản. Người kể lại: “Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác -Lênin vừa làm công tác thực tế dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.

Hồ Chí Minh luôn đề cao những tinh hoa đã được kết đọng lại ở những tư tưởng lớn, đồng thời Người rất coi trọng nghiên cứu những bài học kinh nghiệm phong phú trong nhân dân. Đó là những bài học về cách ứng xử có văn hoá giữa con người với con người; những bài học kinh nghiệm về đoàn kết, đấu tranh chống thiên tai, cường quyền và áp bức,… nhằm xây dựng và bảo vệ những phẩm chất và giá trị tốt đẹp của con người.

Người luôn sâu sát, gắn bó với những người lao động, luôn thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của họ. Người lại có thái độ tôn trọng, có phương pháp tiếp thu khoa học những bài học kinh nghiệm phong phú của mọi tầng lớp, biết thâu tóm, cải biến những kinh nghiệm đó cho phù hợp với hoàn cảnh vừa mang tính khoa học vừa mang tính đại chúng. Người hay dùng những câu tục ngữ, ca dao và những hình tượng mà nhân dân thường truyền tụng, cho nên mỗi vấn đề Người nêu ra đều rất sâu sắc nhưng cũng rất dễ nhớ dễ hiểu.

Điều hấp dẫn đối với Hồ Chí Minh ngay khi còn ở trong nước là những khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” của cách mạng tư sản Pháp. Đến nước Pháp, đến nước Mỹ, Hồ Chí Minh thấy rằng: hai cuộc cách mạng này biết đề cao tinh thần “tự do, bình đẳng, bác ái” nên có sức thu hút và khích lệ con người nhất định. Nhưng đó chỉ là những khẩu hiệu. Bởi vì đằng sau nó là nạn phân biệt chủng tộc, dưới chân tượng đài tự do là những người nghèo khổ lang thang. Làm gì có tự do ở người dân mất nước, làm gì có bình đẳng giữa những người bóc lột và bị bóc lột, với những kẻ cướp nước và bán nước thì làm gì có lòng bác ái. Con đường đó không phải là con đường mang lại tự do hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam và những người cùng khổ.

Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra một kỷ nguyên mới cho toàn nhân loại - “Nước Nga có chuyện lạ đời, biến người nô lệ thành người tự do”. Khi Hồ Chí Minh đến Liên Xô là lúc Lênin vừa qua đời. Sống những ngày tháng đau buồn và sục sôi không khí cách mạng, Hồ Chí Minh đã tiếp thu được nhiều bài học kinh nghiệm ở cuộc cách mạng Nga, đó là bài học về phát huy tinh thần chiến đấu dũng cảm và tinh thần lao động sáng tạo của nhân dân. Đó là bài học về xây dựng con người mới được phát triển mọi mặt. Đó là những bài học về xây dựng, củng cố các tổ chức cách mạng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên và nhất là những bài học về chống quan liêu, chống tham ô, hối lộ khi Đảng Cộng sản đã có chính quyền.

Từ năm 1925, Nguyễn Ái Quốc dừng chân ở Trung Quốc cũng là năm Tôn Trung Sơn lãnh tụ cách mạng Tân Hợi qua đời. Sống ở Trung Quốc nhiều năm được đi lại nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều người, Hồ Chí Minh thấy rằng: “Chủ nghĩa của Tôn Dật Tiên có ưu điểm là chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta”. Chính sách ở đây là chính sách của “chủ nghĩa Tam dân”: “Chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân quyền và chủ nghĩa dân sinh”.

Nhưng cách mạng Tân Hợi là cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Nội dung của chính sách theo “chủ nghĩa tam dân” có mục tiêu không triệt để. Nó khác với quan niệm của Hồ Chí Minh về “dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”.

Hồ Chí Minh tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và những bài học kinh nghiệm của thế giới không phải là để chiêm ngưỡng bình phẩm mà là để áp dụng vào thực tiễn cách mạng Việt Nam . Và chính từ yêu cầu đòi hỏi của cách mạng Việt Nam mà Hồ Chí Minh có sự phát triển, sáng tạo để phù hợp với đặc điểm xã hội, bối cảnh lịch sử, điều kiện về đất nước con người. Thực tiễn cách mạng Việt Nam là cơ sở khách quan trực tiếp để Hồ Chí Minh khái quát lên thành lý luận, tư tưởng.

Nội dung tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh chủ yếu là những tư tưởng định hướng, hướng dẫn, tập hợp tổ chức nhân dân Việt Nam, phát huy sức mạnh của con người Việt Nam đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội nhằm mang lại tự do hạnh phúc cho nhân dân Việt Nam và góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. Hồ Chí Minh không chỉ phát triển những vấn đề lý luận cơ bản phù hợp với đặc điểm các dân tộc thuộc địa, đáp ứng nhu cầu bức thiết của nhân dân các dân tộc thuộc địa, phụ thuộc, mà còn rất sáng tạo trong quá trình thực hiện để cách mạng Việt Nam giành được thắng lợi, từ đó “lan toả” ra trên thế giới.

Những cơ sở khách quan được nghiên cứu tiếp thu kế thừa và phát triển như thế nào là còn phụ thuộc vào sự nỗ lực chủ quan của Hồ Chí Minh.

Về nhân tố chủ quan, Hồ Chí Minh là một con người có tri thức uyên bác. Những tinh hoa trong di sản quá khứ của dân tộc và nhân loại đã được Hồ Chí Minh tiếp thu và nâng cao phù hợp với tình hình, yêu cầu cách mạng. Chúng ta luôn thấy ở Người có tri thức uyên bác từ đông tây, kim cổ đến những hiểu biết phong phú trong cuộc sống. Người am hiểu các đối tượng, các tầng lớp và sử dụng thành thạo nhiều ngôn ngữ trên thế giới….

Hồ Chí Minh còn là một con người có tình cảm sâu sắc và trong sáng. Người không chỉ có tình cảm sâu nặng với nhân dân Việt Nam mà còn có tình nghĩa thủy chung son sắt với bạn bè năm châu và những người cùng khổ trên thế giới. Đi đến nơi nào, Người cũng day dứt trước cảnh đói nghèo của nhân dân lao động. Chính vì thế mà ở Người chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế vô sản.

Và Hồ Chí Minh là một con người có ý chí và nghị lực phi thường.

Để đem lại độc lập cho dân tộc, tự do cho con người, hạnh phúc cho nhân dân, Người đã sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì. Đối với Người “giàu sang không thể quyến rũ, khó khăn không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”, Người nói: “Lòng yêu thương con người, yêu thương nhân dân của tôi không bao giờ thay đổi”.

Hồ Chí Minh luôn đề cao lòng nhân ái và rất coi trọng tình nghĩa, bởi vì theo Người : Con người sống với nhau, gắn bó với nhau trước hết bằng tình người, tình cảm cha mẹ đối với con cái, tình nghĩa vợ chồng, tình nghĩa anh em, tình nghĩa bạn bè, tình làng nghĩa xóm và lan rộng hơn là tình nghĩa đồng chí, đồng bào, tình trước nghĩa sau, tình sâu nghĩa nặng. Người khuyên các cháu thiếu niên nhi đồng phải yêu Tổ quốc, yêu đồng bào. Người căn dặn: thầy thuốc phải như mẹ hiền; thầy cô giáo đối với học sinh cũng phải như người mẹ, người chỉ huy, người chính trị viên phải yêu thương chiến sĩ như anh em ruột thịt. Người luôn khẳng định: Nam Bắc một nhà, Bắc Nam là ruột thịt, đồng bào các dân tộc là anh em. Người thường phê phán những người sống thiếu tình thiếu nghĩa: “Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa, thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác -Lênin được”.

Lòng yêu thương con người của Hồ Chí Minh bắt nguồn từ sự thấu hiểu tình cảnh và hoàn cảnh đang sống của con người. Đối với Hồ Chí Minh không có tình nghĩa chung chung hời hợt giả tạo. Tiếp thu truyền thống nhân ái Việt Nam “thương người như thể thương thân”, đến với chủ nghĩa Mác -Lênin thì tình nghĩa đã được gắn liền với sự giác ngộ, và do có sự giác ngộ mà tình cảm càng thêm sâu sắc. Được đi nhiều nơi trên thế giới, tiếp xúc với những người dân lao động bị áp bức bóc lột, Người khái quát: “Dù mầu da có khác nhau, trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thôi: Tình hữu ái vô sản”. Do thấu hiểu tình cảm và hoàn cảnh đang sống của con người, mà lòng yêu thương con người của Hồ Chí Minh không có sự phân biệt màu da, dân tộc, biên giới. Tình cảm đó trước hết là dành cho những người lao động phải chịu áp bức bóc lột, đang phải sống trong cảnh nô lệ lầm than, nghèo nàn lạc hậu. Tình yêu thương đồng bào Việt Nam đã được quyện chặt với tình yêu thương nhân loại bị áp bức bóc lột, “bốn phương vô sản đều là anh em”.

Người đặc biệt quan tâm đến giải phóng phụ nữ bởi vì họ là những người phải chịu nhiều bất công trong xã hội cũ. Người luôn chú ý đến đồng bào dân tộc thiểu số đang phải sống thiếu thốn giữa núi rừng heo hút. Người dành tình cảm đặc biệt đối với đồng bào miền Nam đang sống dưới ách thống trị của Mỹ - ngụy. Người nói “miền Nam luôn luôn ở trong trái tim tôi”.

Cả đêm “Bác không ngủ” vì “thương đoàn dân công” đang phải chịu mưa rét ngoài rừng. Ngày Tết Bác thương nhất người chiến sĩ đang phải gác ngoài biên giới, hải đảo. Khi ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì nhiều người còn đói, khi uống một cốc nước ngọt Bác cũng day dứt vì bộ đội phòng không đang phải trực chiến giữa trưa hè mà không có nước để uống.

Có thể nói cả cuộc đời Bác từ ăn mặc đến sinh hoạt rất đơn sơ, giản dị là dựa trên sự thấu hiểu sâu sắc với hoàn cảnh của nhân dân và điều kiện của đất nước.

Lòng yêu thương người lao động nghèo khổ gắn liền với sự căm ghét, lên án kẻ xâm lược, lũ bán nước và hạng người áp bức bóc lột. Trong truyền thống dựng nước và giữ nước nhân dân ta luôn coi trọng làm việc thiện nhưng đồng thời hướng cả vào việc chống cái ác. Tiếp thu truyền thống dân tộc, với thế giới quan, phương pháp luận mác xít, Hồ Chí Minh đã xác định rõ nguyên nhân trực tiếp làm cho nhân dân lao động phải chịu nhiều nỗi thống khổ đó là do đế quốc, thực dân là hạng người áp bức bóc lột. Cho nên một trong những nội dung Hồ Chí Minh thường xuyên đề cập là vạch trần bản chất xấu xa và tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân là “ăn cướp và giết người”. Người vạch trần cái gọi là “khai hoá văn minh” thực chất là “một cách khai hoá kỳ khôi để dậy mọi người sống cho ra sống thì trước tiên phải giết họ đi đã”. Người đã luận tội và kết án chế độ thực dân nói chung. Người xác định chúng là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới: “Tất cả những liệt sĩ của giai cấp công nhân, người ở Lêrannơ cũng như ở Pari, những người Lơhavơrơ cũng như người ở Máctinich đều là những nạn nhân của một kẻ sát nhân: chủ nghĩa tư bản quốc tế”. Và Người kêu gọi mọi người phải thường xuyên cảnh giác, luôn luôn đoàn kết để chiến đấu chống kẻ thù chung.

Lòng yêu thương con người của Hồ Chí Minh là yêu thương nhân dân phải trở thành hành động cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, lòng yêu thương người lao động nghèo khổ và sự căm ghét đế quốc thực dân, hạng người áp bức bóc lột phải được biến thành hành động cách mạng cứu nước cứu dân. Và chỉ có hành động cách mạng đem lại tự do hạnh phúc cho con người mới là biểu hiện cao nhất của lòng yêu thương. Người viết: “Nay ở trong thơ nên có thép, nhà thơ cũng phải biết xung phong”. Mở đầu cuốn sách “Đường cách mệnh” Người đã xác định: “Sách này chỉ ao ước sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên, đoàn kết nhau mà làm cách mệnh, văn chương hy vọng sách này chỉ hai chữ: Cách mệnh, cách mệnh, cách mệnh”.

Theo Hồ Chí Minh hành động cách mạng không chỉ giản đơn là “giết hai ba anh vua, bắt chín mười anh quan” mà là hành động có mục đích, có tổ chức chặt chẽ, bởi vì “làm cách mạng là để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, một sự nghiệp rất vẻ vang nhưng cũng rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp lâu dài và gian khổ”.

Lòng yêu thương giữa những người cùng khổ, giữa đồng chí, đồng bào phải bằng sự đoàn kết gắn bó giúp đỡ lẫn nhau.

Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo xây dựng tình đoàn kết chiến đấu giữa những người cùng khổ, giữa nhân dân các nước thuộc địa. Người thường kêu gọi giai cấp vô sản và nhân dân chính quốc, các Đảng cộng sản và công nhân trên toàn thế giới tích cực ủng hộ phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Người tìm mọi cách để xoá đi những thành kiến “Vì giai cấp vô sản ở cả hai đằng đều không hiểu biết lẫn nhau nên đã nảy ra những thành kiến”. Thông qua những tác phẩm, những bài viết, bài phát biểu của mình, Hồ Chí Minh đã làm cho giai cấp công nhân ở tất cả các nước thuộc địa nhận thức được rằng họ đều có kẻ thù chung và chỉ có đoàn kết chặt chẽ thì sự nghiệp đấu tranh mới giành được thắng lợi.

Người thường xuyên quan tâm tới việc củng cố và phát huy truyền thống đoàn kết của dân tộc ta. Người nói: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón ngắn ngón dài, nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc”.

Người đã nêu khẩu hiệu: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công” và tấm gương của Người là hiện thân sinh động của tình đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.

Ngay từ những ngày đầu xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng Người đã nói “người trước súng sau”, “không sợ thiếu vũ khí, chỉ sợ khi thời cơ đến lại thiếu người cầm vũ khí”. Trong những ngày kháng chiến ác liệt Người viết:

                       “Còn non, còn nước, còn người.

                       Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay”.

Khi đề cập đến vấn đề xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người khẳng định: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người mới xã hội chủ nghĩa”. Như vậy trong bất kỳ thời điểm nào, thực hiện bất cứ nhiệm vụ gì Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò to lớn của con người, và rất tin tưởng vào khả năng của con người.

Đó là niềm tin vào ý chí và nghị lực của con người: “Không có việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên”.

Đó là niềm tin vào khả năng vươn tới và khả năng sáng tạo của con người. Người nói: “Ai cũng có một lòng nồng nàn yêu nước, tinh thần yêu nước cũng giống như các thứ của quý… Bổn phận chúng ta là làm cho những của quý kín đáo ấy đều được trưng bày”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ trong hai cuộc kháng chiến, khả năng vươn tới và khả năng sáng tạo của con người Việt Namđã được phát huy cao độ, “lập nên kỳ tích Việt Nam mang tầm vóc thời đại”.

Đó là niềm tin vào khả năng hướng thiện trong mỗi con người. Đối với đồng bào, đồng chí mắc khuyết điểm, sai lầm thì nhân từ độ lượng giúp họ khắc phục thiếu sót. Người nói: “Mỗi con người đều có thiện và có ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản bội Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác chứ không phải đập cho tơi bời”.

Đối với những tù hàng binh thì khoan hồng độ lượng, đối với chính khách khác chính kiến thì thuyết phục, cảm hoá họ để có lợi cho nhân dân, với những kẻ tàn bạo thì đề cao chính nghĩa, khêu gợi cái nhân tính, cái thiện còn sót lại để giảm sự hung hăng tàn bạo.

Hồ Chí Minh rất tin tưởng và luôn đề cao những phẩm chất tốt đẹp của con người như: cần, kiệm, liêm, chính, trung, hiếu, tín, nghĩa… Điểm khác biệt với Nho giáo là những phẩm chất đó mang nội dung mới, hướng tới cái chung, vì sự nghiệp chung cho Tổ quốc, cho nhân dân và nhân loại. Người rất tin tưởng vào khả năng trí tuệ của con người và đặc biệt coi trọng sự nghiệp trồng người.                                                                                          

Trong các giá trị chung của loài người, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng giá trị tự do: “Trên đời ngàn vạn điều cay đắng, cay đắng chi bằng mất tự do”. Người cho rằng quyền tự do của dân tộc là vấn đề thiêng liêng, quyền tự do của con người là cái quý giá nhất, nên khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Và, theo Hồ Chí Minh xét về góc độ nhân văn thì chiến đấu cho độc lập tự do là hành vi cao đẹp nhất, bởi vì, hành vi đó bảo vệ và gìn giữ lương tâm phẩm giá của con người. Người nói: “Tên tuổi của các anh hùng liệt sĩ đời đời sống mãi”. Người thường nhắc nhở thanh thiếu niên phải học tập những tấm gương chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ Quốc.

Con người - theo Hồ Chí Minh - là quần chúng nhân dân, tin vào khả năng của con người cũng là tin vào tiềm năng to lớn của nhân dân. Khác với những tư tưởng tuyệt đối hoá vai trò của thần thánh, của vĩ nhân, Hồ Chí Minh đã sớm nhìn thấy sức mạnh to lớn của nhân dân: “Dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại nổi”.

Đối với Người “nhân, nghĩa là nhân dân. Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Theo người, tin vào quần chúng nhân dân là một trong những phẩm chất cơ bản của người cộng sản, bởi vì “dân chúng rất sáng suốt, rất khôn khéo, rất anh hùng”. Người đặt niềm tin lớn lao vào thế hệ trẻ, trong suy nghĩ của Người “nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên”.

Với Hồ Chí Minh, yêu dân hết mực, lại tin dân mãnh liệt và Người đã phấn đấu không mệt mỏi để niềm tin đó biến thành hiện thực, sức mạnh đó được phát huy trên thực tế. Theo Người “trước hết phải có đảng cách mệnh”, có “chính sách đúng đắn hợp lòng dân”. Phải “biết tiến hành công tác tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân”. Phải chăm lo củng cố, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất để tổ chức, tập hợp đoàn kết toàn dân. Người thường xuyên căn dặn: “Trong một giây, một phút cũng không thể giảm bớt mối liên hệ giữa Đảng với dân chúng” bởi vì: “Đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”. Bác nhắc nhở đội ngũ cán bộ đảng viên: “Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc, giải thích cho dân chúng hiểu rõ. Được dân chúng vui lòng ra sức làm: Như thế hơi phiền một chút, cho những người biếng học hỏi và giải thích. Nhưng việc gì cũng nhất định thành công”.

Theo Hồ Chí Minh đấu tranh để giải phóng con người là phải làm cho con người được sống trong độc lập tự do, hạnh phúc để phát triển được hết khả năng của mỗi người và mọi người.

“Khi Cách mạng tháng Mười thành công, một phần lớn thế giới còn ở dưới ách thực dân và cần phải áp dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện của các nước thuộc địa phụ thuộc”. Hồ Chí Minh đã “cụ thể hoá” mục tiêu lý tưởng của chủ nghĩa Mác Lê nin, nhằm đáp ứng những yêu cầu bức thiết của nhân dân các dân tộc thuộc địa. Người cho rằng: so với công nhân ở chính quốc “thì những người vô sản ở thuộc địa - đang phải chịu đau khổ gấp nghìn lần nỗi đau khổ của họ".

Mục tiêu phương hướng theo Hồ Chí Minh đó là: giành độc lập dân tộc cho các nước thuộc địa và phấn đấu cho sự bình đẳng của tất cả các dân tộc, giành quyền tự do cho những người bị áp bức bóc lột và phấn đấu cho quyền tự do, bình đẳng của tất cả mọi người, đem lại cơm no, áo ấm, đáp ứng nhu cầu học hành cho những người lao động nghèo khổ và phấn đấu hạnh phúc đầy đủ cho toàn nhân loại.

Hồ Chí Minh khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Ngay từ năm 1945, Người cũng đã nói: “Nếu nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Theo Người: Quyền tự do bình đẳng của con người là vấn đề thiêng liêng gắn liền với “Mưu cầu hạnh phúc”, bảo đảm điều kiện sống nhưng cũng phấn đấu đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh thấm nhuần bản chất giai cấp vô sản, nó “không hẹp hòi với bất cứ một bộ phận nào hay một dân tộc nào”, nhưng đồng thời, nó cũng là ánh sáng soi đường của “những người yếu hèn lao khổ, của các dân tộc bị chà đạp đứng lên đấu tranh”, mang lại tự do hạnh phúc cho mỗi con người và cho cả mọi người.

Theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp giải phóng con người bao giờ cũng gắn liền với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội.

Người đã nhiều lần khẳng định: Quyền tự do của con người gắn liền với quyền tự quyết của các dân tộc, khi còn nạn dân tộc này áp bức dân tộc khác thì người dân ở các nước thuộc địa không có quyền tự do tối thiểu, nhưng đồng thời những người vô sản ở các nước chính quốc cũng không có tự do. Người nói: “Chủ nghĩa tư bản ngày nay đã tiến tới trình độ hoàn bị gần như là khoa học. Nó dùng những người vô sản da trắng để chinh phục những người vô sản ở thuộc địa - sau đó nó lại tung những người vô sản ở thuộc địa này đi đánh những người vô sản ở các thuộc địa khác - sau hết nó lại dựa vào những người ở các thuộc địa để thống trị những người vô sản da trắng”.

Trong những bài viết, bài nói Hồ Chí Minh đã làm sáng tỏ quyền bình đẳng và mưu cầu hạnh phúc của con người gắn liền với xã hội tự do, bình đẳng, khi còn nạn giai cấp này bóc lột giai cấp khác thì những người lao động cũng không thể có tự do hạnh phúc thực sự. Cho nên, sự nghiệp giải phóng con người, phải gắn với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Và, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, cuối cùng cũng là để đi đến giải phóng con người.

Người đã “khéo kết hợp khát vọng độc lập dân tộc và khát vọng công lý xã hội của con người”. Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh là ở chỗ Người biết hướng cách mạng giải phóng dân tộc vào trong quỹ đạo của cách mạng vô sản phù hợp với xu thế thời đại được bắt đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga, khi giai cấp vô sản đã ở vị trí trung tâm.

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, sự nghiệp giải phóng con người có sự thống nhất với sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội nhưng không phải là đồng nhất. Trong quá trình thực hiện, vấn đề nào cần tập trung hơn là tuỳ điều kiện, hoàn cảnh và thời cơ cho phép, tháng 11/1930, Người viết: “Dân tộc cách mạng vẫn là một nhiệm vụ giai cấp cách mạng, sự chuyển biến lối này hay lối khác là do hoàn cảnh từng nơi từng lúc, chứ không phải hai đường sai trái với nhau” . Sự sáng tạo của Hồ Chí Minh còn ở ngay trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam tránh được giản đơn, máy móc, tránh được tả khuynh, đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi và từ đó “lan toả ra trên thế giới”. Đó chính là giá trị to lớn và ý nghĩa cao cả của chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.

Theo Hồ Chí Minh, giải phóng con người không chỉ về mặt xã hội mà còn phải giải phóng toàn bộ tiềm năng thể chất, trí tuệ, tài năng sáng tạo để con người phát triển toàn diện, hài hoà vươn tới hoàn thiện.

Khi mới giành được chính quyền, Người đã phát động toàn dân chống giặc đói, chống giặc dốt cùng với chống giặc ngoại xâm. Trong hoàn cảnh đất nước còn rất khó khăn về đời sống vật chất, Người vẫn hết sức quan tâm đến mặt trận văn hoá tư tưởng, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn các hủ tục lạc hậu và chăm lo đến đời sống văn hoá tinh thần cho nhân dân. Người yêu cầu Nhà nước phải “chú ý đặc biệt việc giáo dục thanh niên về thể dục, đức dục và trí dục”... “Phải làm phát triển toàn bộ năng lực sẵn có của các cháu”. Người đã sớm phát động nhân dân thực hiện “Tết trồng cây” vừa đẹp đường làng, ngõ phố vừa có ý nghĩa sâu xa để bảo vệ môi trường. Người rất bất bình trước các tệ nạn quân phiệt, trước những căn bệnh quan liêu, hối lộ và kiên quyết đấu tranh với các tệ nạn đó để ngăn chặn sự tha hoá, trả lại cho con người những phẩm chất tốt đẹp của con người.

Theo Hồ Chí Minh, việc đáp ứng những nhu cầu cả vật chất và tinh thần và đem lại lợi ích chính đáng cho con người, cho nhân dân chính là tạo ra động lực vô cùng lớn lao cho sự nghiệp chung, nếu những nhu cầu và lợi ích chính đáng của con người không được quan tâm thì tính tích cực sẽ bị giảm sút, mọi chính sách “dù hay mấy cũng không thực hiện”. Vì vậy, trong “xem xét và cất nhắc công việc” lấy lợi ích của dân để xác định. “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại đến dân thì hết sức tránh”. Trong đánh giá và tự kiểm điểm cũng lấy việc chăm lo giải quyết các nhu cầu tối thiếu của nhân dân để đánh giá: “Dân còn đói, dân còn rét là Đảng và Chính phủ có lỗi”.

Đối với Hồ Chí Minh, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp cách mạng: “Cách mạng là công việc chung của dân chúng”. Để đưa công cuộc giải phóng đến thắng lợi, để xây dựng xã hội mới thành công cần phải có lực lượng, lực lượng ấy là con người, là nhân dân, nhân tố quyết định thành công của cách mạng, cả trong đấu tranh giành và giữ chính quyền, trong kháng chiến chống xâm lược, cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước. Theo Người, một xã hội mới trong đó mọi người dân đều được ấm no, sung sướng, nhu cầu và lợi ích được thoả mãn ngày càng tốt hơn “chỉ có thể xây dựng được khi có sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người”. Cho nên: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người mới xã hội chủ nghĩa”. Bác cũng thường phê phán lối tư duy giáo điều: “Chúng ta thường kêu gọi làm làng kiểu mẫu, trại kiểu mẫu, đơn vị kiểu mẫu, nhà máy kiểu mẫu… khẩu hiệu đó rất đúng. Nhưng đến nay, hoặc chưa làm được, hoặc làm nửa chừng rồi lại nguội. Vì lẽ gì?

Vì chúng ta quên một lẽ rất giản đơn dễ hiểu: tức là vô luận việc gì, đều do người làm ra và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa đều thế cả”. Bác cũng chỉ rõ hậu quả của lối làm việc quan liêu: “Làm theo cách quan liêu đó, thì dân oán. Dân oán dù tạm thời nay có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, là thất bại”.

Đối với mỗi người chúng ta hôm nay học tập tư tưởng của Bác, noi theo gương Bác là phải hướng mọi suy nghĩ và hành động của mình “hy sinh phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân”. Biết sâu sát gần gũi lắng nghe học hỏi nhân dân, thấu hiểu tâm tư nguyện vọng của nhân dân, đồng thời, cũng phải biết làm cho dân hiểu, dân tin và quyết tâm phấn đấu theo con đường mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, đó là con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, con đường mang lại cơm no, áo ấm và hạnh phúc thực sự cho nhân dân.

Hồ Chí Minh không những đề ra mục tiêu lớn để mọi người phấn đấu mà còn căn cứ vào điều kiện thực tế của nền kinh tế xã hội, vào đặc điểm đất nước, con người Việt Nam mà đề ra những mục tiêu hiện thực, cụ thể chứ không chung chung trừu tượng hoặc nôn nóng theo ý muốn chủ quan. Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội “là một xã hội mới, công bằng, nhân đạo và tốt đẹp, nhằm mục tiêu cụ thể là dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh, con người hạnh phúc”. Người chỉ rõ: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội tức là xây dựng đời sống ấm no, sung sướng cho nhân dân”.

Ngay từ tháng 5/1921, Người đã xác định: Khi nước nhà giành được độc lập sẽ “vạch ra một kế hoạch chi tiết về sản xuất và tiêu thụ; về bảo vệ và phát triển lành mạnh cho trẻ em; về giáo dục và lao động nghĩa vụ đối với thanh niên, nghiêm khắc lên án bọn ăn bám; về nghỉ ngơi cho người già… thủ tiêu mọi sự bất bình đẳng, hưởng thụ, hạnh phúc không phải dành cho một số người mà cho tất cả mọi người”. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.

Đối với con người, Bác vừa quan tâm đến cái chung vừa chăm lo chu đáo thông qua những việc làm cụ thể đối với những con người cụ thể, thuộc các giai cấp các tầng lớp từ các cụ già đến trẻ thơ. Bởi vì, “mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và của gia đình mình”. Bác luôn chăm lo đến sự nghiệp trồng người, Bác nói: “vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”; “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết”. Hồ Chí Minh coi trọng giáo dục tinh thần làm chủ và đạo đức cách mạng cho người lao động, nhưng không coi nhẹ các biện pháp khuyến khích lợi ích vật chất như thưởng phạt hoặc “khoán” trong kinh tế. Người đặc biệt coi trọng tài năng của đất nước, Bác đã dành sự quan tâm đáng kể với những người lao động sáng tạo và những trí thức yêu nước. Người biết rằng: “Nước nhà cần phải kiến thiết, kiến thiết cần phải có nhân tài”. Bác đã tập hợp, đào tạo, hoan nghênh người có tài ra gánh vác việc nước. Bác nói: “Trí thức phục vụ nhân dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến quốc cũng cần, tiến lên chủ nghĩa xã hội cũng cần”.

Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là kết tinh tinh hoa của một dân tộc mà còn là kết tinh tinh hoa của nhân loại. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh là tư tưởng của một nhà cách mạng chân chính, giàu lòng nhân ái, bao dung, nhưng đó là sự khoan dung có nguyên tắc theo hướng tích cực nhằm xây dựng một lối sống, một cách ứng xử có văn hoá, văn minh với mọi người, phấn đấu cho tự do, bình đẳng thật sự và hạnh phúc trọn vẹn cho nhân dân Việt Nam và cho toàn nhân loại.

Tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện khát vọng của nhân dân các dân tộc thuộc địa, là tư tưởng tập hợp và đoàn kết các phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc, phấn đấu cho hoà bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Là “anh hùng giải phóng dân tộc” đồng thời cũng là “nhà văn hoá kiệt xuất” của nhân loại, Người phấn đấu không mệt mỏi cho sự mở rộng và giao lưu văn hoá giữa các dân tộc nhưng đồng thời cũng kiên quyết đấu tranh để bảo vệ bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc.

Lòng yêu thương con người của Hồ Chí Minh không giới hạn không hẹp hòi, không vị kỷ nhưng trước hết là hướng vào những người lao khổ bị đoạ đày. Đó là những người công nhân, nông dân, là những người “lao động trí óc” và các tầng lớp lao động khác. Khi “trên thế giới ở đâu cũng có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột…”, hiểu “dã tâm của hạng người áp bức bóc lột”, Người đã đấu tranh không khoan nhượng để vạch mặt những kẻ “giả nhân giả nghĩa”. Là “chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế”, đồng thời, Hồ Chí Minh cũng là danh nhân văn hoá của toàn nhân loại. Vì lợi ích chung của toàn nhân loại, Người không tiếc công sức để đấu tranh ngăn chặn chiến tranh, khắc phục thiên tai và dịch bệnh, bảo vệ môi trường. Người đấu tranh không mệt mỏi cho hoà bình, hoà bình cho dân tộc và hoà bình cho cả thế giới, một nền hoà bình chân chính trong độc lập, tự do và bình đẳng. Với Hồ Chí Minh quan tâm tới những vấn đề chung của toàn nhân loại nhưng không bao giờ mơ hồ giai cấp. Người đã không tiếc công sức để giải quyết mọi xung đột bằng hoà bình và thương lượng, nhưng cũng rất cảnh giác và giữ vững nguyên tắc. “Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa”.

Ngày nay, đất nước ta đã có hoà bình, chúng ta có điều kiện đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Điều kiện mới đang là điều kiện thuận lợi cho đất nước và mỗi người chúng ta phát triển nhưng cuộc sống bên trong đâu đã hết những điều day dứt. Hơn bao giờ hết tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh - tư tưởng vì con người, với con người, vì hạnh phúc con người với hạnh phúc con người là sức mạnh to lớn để chúng ta vượt lên khó khăn, đẩy lùi thách thức xây dựng đất nước ta ngày một “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như lời Bác dặn.

Xem Thêm

Kỷ niệm 5 năm thành lập báo điện tử Tầm nhìn
Tại Lễ kỷ niệm thay mặt Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, ông Phan Tùng Mậu đã chúc mừng tập thể cán bộ, phóng viên báo điện tử Tầm Nhìn nhân dịp 5 năm thành lập, ghi nhận những thành quả mà...
Chiến thắng vĩ đại mùa Xuân 1975
Chiến dịch lịch sử  Lúc này, tập đoàn phòng ngự lớn của địch ở Sài Gòn - Gia Định tuy số lượng còn đông nhưng đã bị chia cắt, cô lập cao độ và sức chiến đấu đã giảm sút hẳn. 
Vẻ đẹp đặc hiệu của nhà trí thức
Vàng là đẹp, là quý giá. Nhưng không phải vàng nào cũng giá trị như nhau? Có vàng thật, có vàng giả, có cả mạ vàng như thật. Học thức và bằng cấp cũng vậy. Có học thật, có học giả, có bằng thật, có bằng giả như thật. Đại...
Mùa Xuân là Tết trồng cây
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã đề xướng, tổ chức, xây dựng Tết trồng cây trở thành một phong trào quần chúng rộng rãi, sôi nổi và bền vững. Tháng 11-1959, nhân đợt thi đua lấy thành tích mừng Đảng ta 30 tuổi, Chủ tịch Hồ Chí Minh...
Bác Hồ vui Tết đón Xuân trong lòng Tổ quốc
Tết Mậu Tý (1948) Tết mừng chiến thắng Thu Đông năm Đinh Hợi phá tan cuộc tấn công của giặc Pháp lên Việt Bắc và phấn khởi mừng thọ Bác Hồ 58 tuổi: Chính phủ họp nghe Bộ Quốc phòng báo cáo chiến thắng giặc Pháp tại An toàn khu.
Đại tướng Lê Trọng Tấn - Những ngày đầu cách mạng
Giữa năm 1942, tôi đến một cơ sở cách mạng ở làng Lương Yên. Đang nói chuyện thì một quân nhân trong bộ đồ nhà binh Pháp ở phía cổng đi vào. Tôi lánh sang buồng bên cạnh nói chuyện với các em đang học. Khi người ấy về, chủ...

Tin mới

Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.
Phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức KH&CN & LHHVN trong hoạt động của MTTQVN các cấp
Nhằm thảo luận, đề xuất các giải pháp đẩy mạnh và phát huy sức mạnh trí tuệ của đội ngũ trí thức trong hệ thống LHHVN tham gia vào các hoạt động của MTTQVN, nhất là trong hoạt động TV,PB&GĐXH, LHHVN tổ chức Hội thảo Giải pháp phát huy vai trò, trách nhiệm của trí thức trong hoạt động của MTTQVN các cấp. Hội thảo được tổ chức vào chiều ngày 19/11, tại trụ sở LHHVN.
Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
Mạng lưới cơ sở giáo dục đại học phải đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao
Việc quy hoạch lại hệ thống cơ sở giáo dục đại học và sư phạm giúp các cơ sở này nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu và khả năng thích ứng với những thay đổi của xã hội và nền kinh tế, cần tính toán nhu cầu đặc biệt quan trọng của đất nước về nguồn nhân lực chất lượng cao như kỹ sư bán dẫn, kỹ sư vận hành đường sắt tốc độ cao…
Tập huấn nâng cao kiến thức về chuyển đổi số cho hội viên tại tỉnh Lào Cai
Trong hai ngày 15 – 16/11, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam phối hợp với Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Lào Cai và Trường Cao đẳng Lào Cai tổ chức Hội nghị tập huấn “Nâng cao kiến thức về chuyển đổi số” tại Tp. Lào Cai. Hội nghị đã thu hút sự tham dự của hơn 100 đại biểu, học viên là hội viên của Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Lào Cai.
Đề xuất giải pháp phát triển công nghiệp SX cây giống chất lượng phục vụ phát triển cây ăn quả khu vực miền núi phía Bắc
Ngày 12/11, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam phối hợp với Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Sơn La và Hội Giống cây trồng Việt Nam tổ chức Hội thảo “Phát triển công nghiệp sản xuất cây giống chất lượng phục vụ phát triển cây ăn quả khu vực miền núi phía Bắc” tại thị trấn Nông trường Mộc Châu, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.