Trường từ vựng thị giác trong Truyện Kiều
1/ Đặt vấn đề
Trường từ vựng còn được hiểu là trường nghĩa hay trường từ vựng - ngữ nghĩa. Theo GS. Đỗ Hữu Châu thì: “ Một tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là những tập hợp từ đồng nhất với nhau về ngữ nghĩa” (1, tr 171). Áp dụng lí thuyết về trường nghĩa để tìm hiểu đặc điểm ngôn ngữ của các tác phẩm văn học là một hướng đi khá lí thú, có ý nghĩa khoa học. Bài viết này đi sâu tìm hiểu về trường từ vựng thị giác trong Truyện Kiềucủa đại thi hào Nguyễn Du.
2/ Nội dung nghiên cứu
2.1 Kết quả khảo sát
Tiến hành khảo sát 3254 câu Kiều, chúng tôi thu thập được tổng số 35 từ thuộc trường thị giác với tấn ố xuất hiện là 271 lần. Tiến hành phân loại nhỏ hơn, chúng tôi có được bảng kết quả sau:
Tiều trường thị giác | Số lượng (15) | Tỉ lệ % | Số lần xuất hiện | Tỉ lệ % |
Danh từ gọi tên cơ quan thị giác | 15 | 42.90 | 58 | 21.40 |
Động từ chỉ hoạt động thị giác | 14 | 40.00 | 194 | 71.60 |
Tính từ chỉ năng lực cảm nhận của thị giác | 06 | 17.10 | 19 | 7.00 |
Tổng số | 35 | 100 | 271 | 100 |
2.2 Mô tả
a. Danh từ chỉ cơ quan thị giác và bộ phận của cơ quan thị giác
Nguyễn Du đã sử dụng 15 danh từ để chỉ cơ quan thị giác và các bộ phận của cơ quan thị giác. Trong đó, chỉ 04 từ, cụm từ để chỉ cơ quan thị giác là: mắt, con mắt, mắt xanhvà làn thu thủy. Còn lại là 11 từ, cụm từ để chỉ các bộ phận của cơ quan thị giác: lệ, châu, giọt ngọc, giọt tương, giọt riêng, mạch tương, nước mắt, mày, nét ngài, nét nguyệt, nét xuân sơn. Trong số những từ này, có thể nói rằng các từ: lệ, châu, giọt ngọc, giọt riêng, giọt tương, mạch tươnglà chỉ nước mắt.Từ mày,có khi được xuất hiện riêng, độc lập song hầu hết là xuất hiện cùng với kết hợp: đôi mày(câu 488), đầu mày(câu 498), mày râu(câu 628), mày ngài(câu 927) , mày trắng(câu 2148), mặt dạn mày dày(câu 3150)…
Riêng hai cụm từ là làn thu thủy, nét xuân sơnđược coi là sáng tạo riêng của Nguyễn Du khi tả mắt của Thúy Kiều.
25. Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Làn thu thủylà chỉ làn nước mùa thu, có màu xanh, trong, phẳng lặng và sâu thẳm. Nó được dùng để ví với đôi mắt tuyệt đẹp của nàng Kiều. Nét xuân sơnlà nét/ dáng của túi mùa xuân, được ví với nét mày của Kiều. Ngữ nghĩa của hai cụm từ này mang ý nghĩa lâm thời, tức chỉ hiện thực trong câu thơ và tại ngữ cảnh của tác phẩm.
Có thể đi tới nhận định: nhóm từ vựng chỉ cơ quan thị giác và các bộ phận cơ quan thị giác thực chất chỉ gồm 03 từ chính: mắt, nước mắt, lông mày. Còn lại hầu hết là những từ và cụm từ mang ý nghĩa lâm thời, thể hiện sự sáng tạo ngôn ngữ của Nguyễn Du.
b. Động từ chỉ hoạt động của thị giác
Tổng số là 14 động từ: trông, thấy, nhìn, xem, ngắm, nghía, liếc, dòm, ghé (mắt), nhắm, nhằm, ngước, chau (mày), nhăn (mày). Trong số này, trừ 03 trường hợp luôn phải đi với kết hợp ghé (mắt), chau (mày), nhăn (mày);10 động từ còn lại có khả năng hoạt động độc lập.
Cùng chỉ hoạt động của thị giác, nhưng rõ ràng có sự khác nhau căn bản của chủ thể hoạt động (người). Nếu như, các hoạt động như trông, thấy, nhìn, xem nói lên hoạt động bình thường của mắt thì các từ như ghé (mắt), ngước lại chỉ hoạt động hướng lên trên:
1721. Ngướctrông tòa rộng dãi dài.
Các từ: ngắm, nghía, liếc, dòm, nhằm, ghé mắt, nhăn mày, chau mày…còn kèm theo trạng thái tình cảm, cảm xúc của con người.
Ví dụ:
177. Một mình lặng ngắmbóng nga
2579. Nghe càng đắm, ngắmcàng say
Thể hiện sự say sưa, thích thú của chủ thể.
Trong khi đó:
284. Tường đôngghé mắtngày ngày hằng trông
409. Nàng rằng trộm liếcdung quang
2592. Quan trên nhằmxuống người ta trông vào.
Lại thể hiện cách nhìn không trực diện, hé lộ sự không ngay ngắn, đàng hoàng của nhân cách chủ thể nhìn.
Còn nhăn màytrong câu:
2826. Lọt tai Hồ cũng nhăn màyrơi châu
Thì lại thể hiện trạng thái cau mày lại vì đau đớn và tức giận xen lẫn nhau.
c. Tính từ chỉ năng lực cảm nhận của cơ quan thị giác
Chúng tôi đếm được 06 tính từ. Trong đó có 02 từ là tinhvà nhãn tiềnchỉ năng lực cảm nhận vật nói chung:
2201. Khen cho con mắt tinhđời
1551. Làm cho trông thấy nhãn tiền
04. từ chỉ năng lực cảm nhận về sự vật có sự chi phối của ánh sáng: tỏ, quáng, lòa, mờ:
141. Nẻo xa mới tỏmặt người
1507. Dễ lòayếm thắm trôn kim
1807. Phải rằng nắng quángđèn lòa
485. Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
Nhận xét:
Trong trường từ vựng thị giác, dễ dàng nhận thấy số lượng từ chỉ nước mắtchiếm số lượng lớn (07 đến 24 lần xuất hiện). Điều này minh chứng rằng: tác phẩm là câu chuyện về Thúy Kiều - một người con gái tài hoa bạc mệnh có số phận đau khổ, bi kịch, tràn đầy nước mắt: nước mắt khi gia biến, nước mắt phải bán mình, nước mắt khi phụ chàng Kim, nước mắt khi phải “tiếp khách”, nước mắt đoàn viên trong bi kịch…cho thấy, không phải ngẫu nhiên mà khi bình về Đoạn trường tân thanh, Tiên phong Mộng Liên Đường Chủ Nhân đã phải thốt lên rằng, Nguyễn Du quả là “ có cái con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời…” (3, tr 169).
2.3 Hiện tượng chuyển trường của trường từ vựng thị giác trong Truyện Kiều
2.3.1 Chuyển từ trường thị giác sang trường nghĩa chỉ sự nhận biết
Trong tác phẩm, hiện tượng này xuất hiện khá nhiều.
Từ thấy: 06 lần được chuyển nghĩa để chỉ sự phân biệt nói chung:
429. Đến nhà vừa thấytin nhà.
609. Thấynàng hiếu trọng tình thâm
744. Thấyhiu hiu gió thì hay chị về
1306. Máu tham hễ thấyhơi đồng thì mê
1748. Thấy người thấynết ra vào mà thương.
2258. Mé ngoài đã thấybóng cờ tiếng la.
Từ tinh:02 lần chỉ khả năng nhận biết sự việc một cách sáng suốt, sắc sảo:
1987. Khen rằng bút pháp đã tinh
2201. Khen cho con mắt tinhđời.
Từ tỏ:06 lần được sử dụng với nghĩa nhận biết sự vật một cách rõ ràng:
141. Nẻo xa mới tỏmặt người.
392. Rễ mây trông tỏlối vào thiên thai
485. Ngọn đèn khi tỏkhi mờ
1313. Sinh càng tỏnét càng khen.
1806. Trông xa nàng đã tỏchừng nẻo xa
3142. Dưới đèn tỏrạng má đào thêm xuân
Và có 04 lần dùng với nghĩa nhận biết sự việc một cách rõ ràng:
1070. Lòng này ai tỏcho ta hỡi lòng
1489. Bấy chầy chưa tỏtiêu hao
1998. Mấy lời nghe hết đã dư tỏtường
2506. Vương sư dòm đãtỏtường thực hư.
Từ mờ:01 lần được sử dụng với nghĩa nhận biết sự vật không rõ ràng:
485. Ngọn đèn khi tỏ khi mờ
2.3.2 Chuyển từ trường thị giác sang trường nghĩa chỉ sự nhìn nhận và đánh giá
Các từ như con mắt, mắt xanh, xem, nhìn
Những từ này, có một số trường hợp hiện tượng chuyển nghĩa, chuyển trường đã khá quen thuộc trong tiếng Việt; song có nhiều chỗ thể hiện sự sáng tạo của Nguyễn Du:
2201. Khen cho con mắt tinhđời
2182. Mắt xanhchẳng để ai vào có không?
2.3.4 Chuyển từ trường thị giác sang trường nghĩa tâm lí, tình cảm
Đây là sự chuyển trường khá đặc biệt với nội dung: thể hiện trạng thái mong ngóng, chờ đợi, tin tưởng… một cách hết sức da diết và cháy bỏng của nhân vật.
Ví dụ: từ trôngđược dùng 04 lần chỉ sự mong đợi khắc khoải của chàng Kim sau những buổi gặp mặt hò hẹn với nàng Kiều và khi mỗi người một phương trời xa cách:
324. Thầm trôngtrộm nhớ bấy lâu đã chồn
366. Bên trôngđầu nọ bên chờ cuối kia
380. Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông
1040. Tin sương luống những rày trôngmai chờ
3. Kết luận
Trường từ vựng thị giác trông Truyện Kiềuxuất hiện với số lượng từ khá lớn. Bài viết đã tiến hành khảo sát và bước đầu tiến hành mô tả về trường từ vựng thị giác và sự chuyển trường của chúng. Qua số liệu thống kê và mô tả, cho chúng tôi đi tới nhận định là: trong tác phẩm, Nguyễn Du không chú trọng nhiều vào miêu tả ngoại hình mà đi sâu vào thế giới nội tâm của con người, của nhân vật. Số lượng từ miêu tả hình ảnh về đôi mắt của nhân vật xuất hiện không nhiều; trong khi đó, những hoạt động của đôi mắt lại được quan sát và miêu tả tỉ mỉ, kĩ lưỡng. Vì đó không chỉ đơn thuần là sự quan sát của bản thân nhân vật mà đó còn là đôi mắt nhìn người, nhìn đời của chính nhà văn. Ở đó chính là vốn sống, sự trải đời của Nguyễn Du.
Tài liệu tham khảo:
1/ Đỗ Hữu Châu,Từ Vựng ngữ nghĩa tiếng Việt , Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
2/ Đào Duy Anh,Từ điển Truyện Kiều , Nxb KHXH Hà Nội, 1993; Nxb Phụ Nữ, Hà Nội, 2007.
3/ Mộng Liên Đường Chủ Nhân, Tự, trongNguyễn Du về tác gia và tác phẩm , tái bản lần 1, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr 169.
4/ Chafe L.W,Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
5/ Cao Xuân Hạo,Tiếng Việt: Sơ thảo ngữ pháp chức năng (Q. 1), Nxb KHXH, Hà Nội, 1991.
6/ Cao Xuân Hạo,Tiếng Việt: Mấy vấn đề ngữ âm - ngữ pháp - ngữ nghĩa, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001.
7/ Đào Thản,Từ ngôn ngữ chung đến ngôn ngữ nghệ thuật. Nxb KHXH, Hà Nội. 1998.
8/ Bùi Minh Toán,Những mối quan hệ hệ thống của ngôn ngữ và việc phân tích ngôn ngữ nghệ thuật của tác phẩm văn học trong giảng dạy tiếng Việt và văn học, Ngôn ngữ (3), 1989, tr 29 - 30.