Tình trạng nhiễm phóng xạ tự nhiên ở Việt Nam: Vượt chuẩn
Nhiễm xạ tự nhiên
Không kể các vùng mỏ phóng xạ, còn nhiều vùng khác rải rác từ Bắc chí Nam có độ phóng xạ cao hơn mức tiêu chuẩn môi trường cho phép (liều chiếu ngoài với người là 1mSV) từ hàng chục đến hàng trăm lần. Đáng chú ý hơn là không ít các khu vực phóng xạ tự nhiên ở mức nguy hiểm lại rất rộng, có thể rộng hàng trăm kilômét vuông.
Sau nhiều năm điều tra nghiên cứu, Cục địa chất và Khoáng sản nước ta đã xây dựng được bản đồ các khu vực nhiễm xạ tự nhiên toàn quốc. Đến nay, gần 20 năm đã qua, bản đồ đó vẫn nằm trong kho lưu trữ. Nhiều vùng nhiễm xạ tự nhiên đến nay đã trở thành các khu vực dân cư mới (các khu giãn dân, tái định cư, kinh tế mới…). Nhiều loại đá có tính phóng xạ cao được thợ chẻ đá biến thành hàng triệu viên đá ốp, đá xây dựng, ùn ùn chở vào đô thị để xây những căn nhà mới. Một số loại than đá giàu chất phóng xạ được nhân dân và các cơ quan đơn vị sử dụng để đun nấu, nung gạch ngói, tạo các bãi xỉ than có hàm lượng phóng xạ cao rải rác đó đây trong các vùng dân cư đông đúc.
Bản đồ phông
Ông Bùi Tất Hợp, Phó Liên đoàn trưởng Liên đoàn địa chất xạ hiếm khẳng định thông tin PGS.TS Hoè nêu ra. Ông cho biết, từ năm 2000 đến nay, Liên đoàn đã tiến hành hai dự án đánh giá hiện trạng môi trường phóng xạ. Theo đó, dự án đã xác định được những vùng đất không an toàn về phóng xạ. Ở những vùng đó, mức độ phóng xạ trong nước, không khí, đất và một số cây trồng - đặc biệt là lúa và sắn - đều vượt quá các chỉ tiêu được quy định trong tiêu chuẩn an toàn phóng xạ. Đó là những khu vực chung quanh các mỏ khoáng sản, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Bắc và miền Trung Việt Nam: Nậm Xe, Đông Pao, Thèn Sin (Phong Thổ, Lai Châu), Mường Hum (Bát Xát, Lào Cai), Bình Đường (Nguyên Bình, Cao Bằng), Khe Hoa – Khe Cao, Pà Lừa, An Điềm, Đông Nam Bến Giằng (Nam Giang, Quảng Nam). Tuỳ theo điều kiện địa hình từng vùng, bán kính ảnh hưởng về phóng xạ của các mỏ sẽ khác nhau, nhưng trung bình là 3-5 km. Vùng mỏ nào ở trên cao sẽ ảnh hưởng nhiều đến vùng thấp. Những vùng bãi bồi lớn, có nhiều mạch nước ngầm thì mức độ ảnh hưởng sẽ rộng hơn. Việc khai thác than, khoáng sản chứa các yếu tố phóng xạ, việc mở rộng đường cũng làm lan rộng phạm vi ảnh hưởng của phóng xạ. Tuy nhiên, theo ông Trần Bình Trọng, phó phòng kỹ thuật của Liên đoàn, các điểm “đen” về phóng xạ hiện vẫn được quản lý rất tốt, chỉ trừ việc khai thác titan sa khoáng ven biển gây mở rộng phạm vi nhiễm xạ nhiều nhất thì chưa thuộc diện điều tra của liên đoàn.
Tuy chưa được công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng thông tin về những vùng nhiễm xạ tự nhiên đã được thông báo đầy đủ đến các cấp lãnh đạo của từng địa phương. Một số vùng nhiễm xạ vẫn có dân cư sinh sống và hiện chúng ta chưa đủ kinh phí để di dời dân ra nơi an toàn hơn.
Về bản đồ các khu vực nhiễm xạ, ông Trọng cho biết, đó là bản đồ trường phóng xạ, một phần của bản đồ phông (có giá trị đánh giá môi trường). Về nguyên tắc, hoàn thành đến đâu thì phải xuất bản đến đấy. Tuy nhiên, cho đến nay, bản đồ trường phóng xạ chưa được xuất bản. Theo thông tin từ ông Hợp, bản đồ này sắp được in ấn và công bố trong thời gian tới.
Nguồn: KH & ĐS (phụ san)30/6/2006







