Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ năm, 04/06/2009 16:03 (GMT+7)

Tinh thần hiếu học một giá trị tiêu biểu của văn hóa Bắc Trung bộ

Truyền thống hiếu học ở Bắc Trung Bộ

Ngày nay, đọc lại các chính sách chiêu hiền đãi sỹ của các triều đại phong kiến, hương ước của các làng, các thể loại văn học dân gian..., chúng ta thấy người dân Bắc Trung Bộ rất coi trọng việc học. Các triều đại phong kiến phương Bắc luôn coi những người tài nước Nam là một mối đe dọa cho chính sách bành trướng của mình nên đã cử nhiều thầy phong thủy, trong đó có Cao Biền đi khắp nước ta để trấn yếm các long mạch, với ý đồ làm cho nhân dân ta mãi mãi không có người tài, không có anh hùng hào kiệt nhằm dễ bề cai trị. Nhưng người tài vẫn xuất hiện trong suốt tiến trình lịch sử dân tộc, phần lớn trong số đó đều có xuất thân từ những gia đình lao động vất vả, từ những dòng họ, những vùng đất có bề dày về truyền thống hiếu học, chịu thương chịu khó.

Thiên nhiên không ban tặng cho Bắc Trung Bộ những nguồn tài nguyên dồi dào hay khí hậu thuận lợi. Vùng đất này vừa có những dãy núi cao hiểm trở phía Tây, vừa có bờ biển dài phía Đông, địa hình khá dốc từ Tây sang Đông cho nên đất liền thường bị chia cắt bởi những con sông chảy xiết, bởi những con đèo, dãy núi quanh co; Thời tiết khắc nghiệt, mùa đông thì gió rét, hanh khô kéo dài, mùa hè thì nắng nóng bởi gió Tây Nam thổi qua, gánh chịu nhiều thiên tai lũ lụt... Điều kiện tự nhiên ấy cho thấy rằng người Bắc Miền Trung, ngay trong đời sống hàng ngày của mình đã phải đấu tranh gian khổ để sinh tồn, và chính điều này, tạo nên cho họ một tính cách chịu đựng gian khổ, tiết kiệm, đặc biệt là ý thức vươn lên làm chủ số phận, ứng xử chủ động với thiên nhiên. Đó là động lực thôi thúc bao thế hệ học trò, sĩ tử Bắc Trung Bộ vượt lên khó khăn gian khổ để tôi luyện cốt cách, trí tuệ, dùi mài kinh sử thăng tiến bằng con đường học vấn, thi cử.

Nhà nghiên cứu Vũ Khánh có nói đến 4 đặc điểm cá tính của người Nghệ Tĩnh là “có lý tưởng trong tâm hồn; sự trung kiên trong bản chất; sự khắc khổ trong sinh hoạt và sự cứng cỏi trong giao lưu”. Ông còn nói, chất lý tưởng trong tâm hồn chính là cái đặc trưng của văn hóa xứ Nghệ, mà nhờ đặc trưng ấy, bao con người xứ Nghệ đã ra sức học tập, phấn đấu, hy sinh không mệt mỏi vì lý tưởng.

Mặc dù vậy, điều kiện địa lý tự nhiên tự nó chưa cắt nghĩa được tinh thần hiếu học của người Bắc Trung Bộ. Bởi lẽ, dù thiên nhiên có khó khăn khắc nghiệt bao nhiêu nhưng con người không quyết tâm để thay đổi, để thích nghi và phát triển trong điều kiện ấy thì không thể xuất hiện những sĩ tử hiếu học được. Sự thật là, ở một số địa phương, mặc dù không khó khăn lắm về địa lý tự nhiên nhưng việc học không được coi trọng cho nên không có những cá nhân xuất sắc, hoặc có rất ít hiền tài. Do đó, chính điều kiện xã hội - văn hóa mới là yếu tố quyết định tạo nên truyền thống hiếu học của người dân Bắc Trung Bộ.

Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, giai đoạn nào cũng thấy xuất hiện những hiền tài đất Bắc Trung Bộ. Ở mảnh đất này, học tập không hoàn toàn là một nỗ lực của cá nhân người đi học mà là một kỳ vọng, một nỗ lực xã hội. Cho nên, một người đỗ đạt thường làm rạng danh cả dòng tộc, xóm làng. Chúng ta bắt gặp nhiều câu chuyện về đức hy sinh cho chồng con, cho gia đình về chuyện ăn học, công danh. Dân gian có thể bảo học trò nghèo nhưng không bao giờ khinh rẻ, dè bỉu họ, vẫn còn những ông đồ nghèo mở lớp dạy tư với một tâm nguyện duy nhất là đời sau sẽ có những đồ đệ hơn mình thi đỗ làm quan, “hậu sinh khả úy”...

Như vậy, tinh thần hiếu học chính là sản phẩm phản ánh quá trình các cá nhân, xã hội trong những giai đoạn lịch sử đề cao việc học và con đường tiến thân bằng học vấn. Truyền thống hiếu học là một biểu hiện của sự khát khao tri thức rất tự nhiên của con người, là ham thích, coi trọng việc học, là một trong những đức tính cao quý nhất của con người.

Có lẽ vì thế, nhìn vào những tiểu khu văn hóa Bắc Trung Bộ, chúng ta dễ dàng nhận thấy, ở hầu hết các địa phương đều có nhiều hiền tài được sử sách ca ngợi bao đời. Vùng quê Thanh Hóa (xứ Thanh) nổi lên những nhân sĩ tài ba như Lê Văn Hưu (tác giả Đại Việt sử ký), Nhữ Bá Sĩ (tác giả Việt sử tam bách vịnh), Đào Duy Từ (tác giả Hổ trướng khu cơ), Đinh Thì Trung...; vùng Hà Tĩnh có những tên tuổi như Mai Hắc Đế, Đặng Dung, Cao Thắng, Phan Đình Phùng, Trần Phú, Lý Tự Trọng, Lê Hữu Trác, Phan Huy Ích, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ...; đặc biệt là Nghệ An, vùng đất của “địa linh nhân kiệt”, đã sinh ra những vĩ nhân như Nguyễn Trường Tộ, Phan Bội Châu, Lê Hồng Phong, Hồ Chí Minh...

Chúng ta cũng thấy có nhiều làng, nhiều dòng họ có truyền thống hiếu học đã được sử sách và gia phả lưu danh. Thậm chí, có những làng còn có hương ước khuyến khích việc học của con em trong làng, như hương ước của làng Dã Lê Thượng (xã Thủy Phương, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế) quy định cụ thể số tiền thưởng, ruộng đất cho người đỗ đạt, hay làng Dương Phố (Thanh Chương), làng Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu, Nghệ An), làng Câu Hoan (xã Hải Thiện, huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị), dòng họ Nguyễn Quốc (xã Nghi Diên, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An), dòng họ Nguyễn Đức (xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An), dòng họ Phan Huy (Thạch Châu, Lộc Hà, Hà Tĩnh và Phủ Đức Quang, Nghệ An), họ Trần Huy (xã Diễn Phong, Diễn Châu, Nghệ An), họ Nguyễn Cảnh (Đô Lương, Nghệ An), họ Đinh Xuân (Thanh Chương, Nghệ An), đáng chú ý là họ Hồ (Quỳnh Lưu, Yên Thành, tỉnh Nghệ An và Huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh), một dòng họ được lịch sử ca ngợi rất nhiều về thành tích hiếu học “trạng bố - trạng con, trạng ông - trạng cháu”... Những dẫn liệu này cho phép chúng ta hình dung ra truyền thống hiếu học bề dày của nhân dân khu vực Bắc Trung Bộ. Truyền thống ấy không ngừng được bồi tụ qua các thời đại lịch sử cho đến tận ngày nay.

Sở dĩ chúng ta quan niệm hiếu học là một giá trị văn hóa tiêu biểu của Bắc Trung Bộ là vì, nơi đây còn là “đất phát” của nhiều nhân sĩ tới từ các tiểu vùng văn hóa khác. Ví dụ như danh nhân Lê Hữu Trác (1720-1791), vốn sinh ra tại Hoàng Hữu Nam, Yên Mỹ, Hải Dương nhưng thời gian sống và nổi danh lại ở xã Sơn Quang, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Được sinh ra trong một gia đình có truyền thống khoa bảng (cha ruột của ông từng đỗ Đệ tam giáp tiến sĩ thời vua Lê Dụ Tông), do cuộc khởi nghĩa nông dân 1793, ông phải chuyển về quê mẹ ở Hà Tĩnh tiếp tục sự nghiệp đèn sách. Sau khi từ giã chốn quan trường, ông theo học lương y Trần Độc. Học cạn chữ thầy, Lê Hữu Trác đã đi rất nhiều nơi khác để học thêm về nghề thuốc, tâm nguyện không đạt, ông quay về Hương Sơn “khước từ sự giao du, đóng cửa để đọc sách”, bản thân đã nghiên cứu rất kỹ về lý luận y học, đồng thời thực hành những tìm tòi mới. Về sau, dù triều đình hết mực mời về kinh đô làm việc nhưng Lê Hữu Trác đã từ bỏ vinh hoa phú quý để chuyên tâm nghề thầy thuốc, cứu chữa bệnh cho nhân dân, trở thành một vị lương y được tôn kính.

Làng Quỳnh Đôi (làng Thố Đôi, còn gọi là làng Quỳnh), một làng được “gieo chữ” bởi gia sư mẫn tiệp Dương Văn Khai (Kinh Bắc) - một sứ giả học vấn. Làng này nổi danh về học vấn tới mức dân gian còn ca ngợi rằng “ Làng Quỳnh lắm kẻ đăng khoa. Ông nghè, ông cử như hoa làng Quỳnh” (theo số liệu thống kê, làng này có 531 người đậu tú tài, 203 cử nhân, 958 lượt đậu khoa bảng, 4 phó bảng, 6 tiến sĩ, 2 hoàng giáp, 1 thám hoa, 1 bảng nhãn. Hiện nay trong số 4.694 người làng Quỳnh, có 500 người có trình độ đại học trở lên, 30 tiến sỹ, 8 phó giáo sư, 3 giáo sư và 17 thạc sỹ).

Một số tấm gương hiếu học tiêu biểu

Lê Văn Hưu(1230-1322) người thôn Phủ Lý Trung, xã Thiệu Trung, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa với chí ham học, mới 17 tuổi đã đỗ Bảng nhãn (năm Đinh Mùi 1247), sau làm tới chức Thượng thư Bộ Binh (đời vua Trần Thái Tông), Lâm viện học sỹ, kiêm Quốc Sử viện Giám tu (đời vua Trần Thái Tông) và là thầy giáo của Thượng tướng Trần Quang Khải, một danh tướng của cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên - Mông.

Đào Duy Từ(1572-1634) người xã Nguyên Bình, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa ngày nay, ngay từ tấm bé, kẻ “chăn trâu anh hùng” đã đam mê sách vở, hiểu biết rất rộng nhưng do xuất thân gia đình thấp kém nên không được cho đi thi cử nhân dù đã đổi họ (đổi từ họ Đào sang họ Vũ). Về sau ông quyết chí vào Đàng Trong lập nghiệp với chúa Nguyễn Phúc Thuần. Đào Duy Từ đã được cất nhắc giữ nhiều chức vị quan trọng như Tán trị dực công thần, Lộc Khuê hầu, Hoằng Quốc Công, ông là tác giả của Lũy Trường Dục và Lũy Thầy, hai tuyến phòng thủ quan trọng để chúa Nguyễn ngăn chặn sự tấn công của chúa Trịnh (Đàng Ngoài), tác giả của nhiều tập thơ lục bát và là ông tổ của nghệ thuật hát Tuồng Việt Nam. Sử sách dân tộc đã hết lời ca ngợi ông là người có chí lớn, vượt qua khó khăn gian khổ, một tấm gương sáng về lập thân, lập nghiệp và hiếu học.

Nguyễn Thiếp(1723-1804) người làng Nghiệt Ao, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, đậu hương cống (đời Lê), được người đương thời suy tôn là La Sơn Phu tử. Ông là người phê phán gay gắt lối học tầm chương trích cú cầu danh lợi, kêu gọi chấn hưng lại nền “chính học” nhằm đào tạo ra những con người có tài năng đức độ, đem sở học giúp ích cho đời. Về sau, Nguyễn Thiếp đã được vua Quang Trung mời ra giúp việc cho triều đình.

Nguyễn Du(1766-1820) người làng Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, 17 tuổi thi đậu tú tài, 36 năm sau được phong làm Tri phủ huyện Phù Dung, rồi tri phủ Thường Tín, được nhà vua tin cậy nhiều lần cử đi sứ sang Tàu, và cất nhắc giữ nhiều chức vụ quan trọng như Đông Các học sỹ, Cai bạ tỉnh Quảng Bình, Cần chánh điện Học Sĩ, Tham tri Bộ lễ.

Lê Quát(còn gọi là Trạng Quét, sống vào đời vua Lê Nhân Tông, người làng Phủ Lý, huyện Đông Sơn Thanh Hóa) mồ côi cha từ nhỏ, dựng lều sống với mẹ ở chợ và sống bằng nghề quét rác, ban đầu ông học rất kém, nhưng do chí khí vững vàng, lại được vợ động viên cho nên đã chăm chỉ học tập và thi đỗ Thái học sinh, sau này làm quan đến chức Thượng thư hữu bật. Có lúc ông tự trào rằng “Ta lúc bé đọc sách, chỉ muốn bắt chước kim cổ, từng hiểu qua đại thánh để giáo hóa mọi người, mà cuối cùng chửa được một hương nào tin. Thường du lãm non nước, vết chân đã nửa thiên hạ, muốn tìm nhà học, văn miếu, chưa từng thấy đâu. Vì vậy, ta lấy làm thẹn với nhiều môn đồ nhà Phật. Vậy tự bộc bạch ra để khuyên răn mọi người”.

Nguyễn Trường Tộ(1828-1872) người làng Bùi Chu, Hưng Nguyên, Nghệ An, là người rất đề cao giá trị thực học, ông không khuôn mình theo cái khung của giáo dục Nho giáo, phê phán cách học từ chương khoa cử của nhà Nguyễn lúc bấy giờ, đồng thời kêu gọi học hỏi khoa học và kỹ thuật phương Tây, mở cửa làm ăn với họ để đất nước phát triển, xã hội phồn vinh.

Phan Bội Châu,tên thật là Phan Văn San (1867-1940), người làng Đan Nhiệm, Nam Hòa, Nam Đàn, Nghệ An, ngay từ tấm bé đã hiểu biết Tam Tự Kinh, Luận Ngữ, 13 tuổi thi đỗ đầu huyện, do nhà nghèo phải tự đi dạy học và ôn thi, đến cuối năm 1900 Phan Bội Châu đỗ Giải Nguyên và sớm tham gia vào nhiều phong trào chống Pháp. Suốt đời ông bôn ba khắp thế giới để tìm kiếm con đường giành độc lập cho dân tộc, và cũng là người ngay từ năm 1925 đã đánh giá chính xác về vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với cách mạng Việt Nam về sau.

Hồ Chí Minh(1890-1969) người làng Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An, là một tấm gương sáng ngời về tinh thần hiếu học, dù hoạt động cách mạng đầy gian truân nhưng ở mọi nơi, mọi lúc Người đều tranh thủ học tập, tích lũy kiến thức. Cách học của Người là luôn chủ động nắm bắt tri thức, cập nhật kiến thức thông tin mới, có lẽ vì thế, Người đã sử dụng thành thạo rất nhiều ngôn ngữ, rất sáng tạo trong học tập và vận dụng lý luận cách mạng, Người là tấm gương sáng về việc học tập suốt đời mà ngày nay bất cứ ai dù làm ở vị trí công tác nào cũng cần noi gương.

Trên đây là những nét cơ bản nhất về truyền thống hiếu học Bắc Trung Bộ. Truyền thống hiếu học có ở nhiều nơi, song ở mỗi địa phương, mỗi vùng miền lại có những biểu hiện, những mức độ khác nhau. Xưa kia, so với đất Kinh Bắc, thì Bắc Trung Bộ là đất trại, nhưng dù có sự phân biệt như thế thì các thế hệ sỹ tử hiếu học cũng cơ bản giống nhau, vì bản thân nền giáo dục họ sử dụng là Nho học, con đường tiến thân không xa rời lý tưởng của nhà Nho. Cái khác là ở chỗ, ở vùng Bắc Trung Bộ, việc học đã được nâng lên thành một triết lý đổi đời, thành tiêu chuẩn thiêng liêng đặc trưng cho gia đình, dòng tộc, xóm làng và phiên trấn, và do đấy nó nâng đỡ cho các nỗ lực cá nhân vượt qua các xuất phát và địa vị để thành đạt bằng học vấn. Vì thế, hiếu học dần dần trở thành một giá trị ổn định dù cho cơ cấu xã hội có những thay đổi căn bản. Tuy nhiên, nếu bê nguyên xi truyền thống này vào trong xã hội ngày nay tất sẽ vấp phải những kháng cự chống lại sự phát triển. Chỉ đơn cử một trường hợp, việc học ngày xưa chỉ là đặc quyền của đàn ông, còn phụ nữ không được coi trọng, ngày nay, nam nữ bình đẳng, nhu cầu học tập chính đáng là quyền và nghĩa vụ của mọi người. Đâu đó, xuất hiện tình trạng người khác dòng họ, khác làng, khác tỉnh ganh đua, tranh quyền đoạt lợi, khôi phục truyền thống nhưng lại đào sâu sự khác biệt, sự thù hằn của quá khứ, mua bán quan chức, chạy việc, chạy tội, chạy quyền chạy chức... làm cho thuần phong mỹ tục bị biến dạng, thật giả lẫn lộn, người tài bị thành kiến, chén ép, trù dập, cái cổ hủ trá hình hoành hành ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực, đây là những trở ngại cần sớm được khắc phục trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Bắc Trung Bộ.

______________

Tài liệu tham khảo:

1. Việt Anh - Cao - Lê Thu Hương (2002), Chuyện kể về các nhà khoa bảng Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

2. Quốc Chấn (2001), Chuyện thi cử và lập nghiệp của học trò xưa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

3. Nguyễn Khoa Điềm (2002), Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

4. Nguyễn Văn Năm (2007), Đạo học với truyền thống tôn sư, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

5. Lê Minh Quốc (2002), Các vị nữ doanh nhân Việt Nam (Phần hai), Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh

6. Ngô Đức Thịnh (1993), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam , Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

7. Nguyễn Thế Long (2006), Truyền thống gia đình và bản sắc dân tộc ở Việt Nam , truyền thống hiếu học & tôn sư trọng đạo, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

8. Nguyễn Thừa Hỷ (2001), Lịch sử văn hóa Việt Nam truyền thống giản yếu, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

9. Cao Xuân Hạo (2001), Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

10. Hội Văn nghệ Việt Nam , Viện nghiên cứu văn hóa dân gian, Hội văn nghệ dân gian Nghệ An (1997), Văn hóa truyền thống các tỉnh Bắc Trung Bộ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

11. Lê Thông (2006), Địa lý các tỉnh và thành phố Việt Nam , tập 3 (các tỉnh Tây Bắc và vùng Bắc Trung Bộ), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

12. Hồ Sỹ Vịnh (2002), Đôi nét về dòng chảy văn hóa và người Quảng Trị, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Xem Thêm

Nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh
Chính phủ yêu cầu thực hiện hiệu quả Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021- 2030, tầm nhìn 2050. Đồng thời nghiên cứu, thử nghiệm và nhân rộng các mô hình kinh tế xanh, đô thị, nông thôn xanh; thúc đẩy sản xuất và tiêu dùng bền vững...

Tin mới

Đoàn đại biểu VUSTA viếng đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Chiều ngày 24/5/2025, đoàn đại biểu Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam do TSKH. Phan Xuân Dũng, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam làm trưởng đoàn đã tới kính viếng đồng chí Trần Đức Lương, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Thanh Hoá: Tập huấn Bình dân học vụ số cho cán bộ, hội viên
Ngày 22/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Thanh Hóa tổ chức Hội nghị tập huấn về Công nghệ số ứng dụng trong sản xuất và đời sống (Bình dân học vụ số) cho gần 200 cán bộ, hội viên của các hội thành viên, trung tâm trực thuộc, đơn vị liên kết trong hệ thống Liên hiệp hội.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.
Tiền Giang: Họp mặt và vinh danh trí thức KH&CN
Ngày 20/5, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Tiền Giang phối hợp Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức họp mặt trí thức KH&CN và vinh danh 2 trí thức được phong hàm Phó Giáo sư, 8 trí thức được công nhận học vị Tiến sĩ.
ĐẨY MẠNH HỢP TÁC VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN TRONG HỆ THỐNG LIÊN HIỆP HỘI VIỆT NAM
Sáng ngày 13/5/2025 tại tỉnh Sóc Trăng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã phối hợp với Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Sóc Trăng tổ chức Hội thảo “Xúc tiến hợp tác và chia sẻ kinh nghiệm hoạt động đối ngoại nhân dân trong hệ thống Liên hiệp hội Việt Nam”.
VUSTA đóng góp cho Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 2013 và Dự thảo Luật KHCN & ĐMST
Dù chỉ sửa đổi một số điều của Hiến pháp năm 2013, đội ngũ trí thức Liên hiệp Hội Việt Nam nhấn mạnh tính cấp thiết và chiều sâu cải cách, từ mô hình chính quyền hai cấp đến quy định cụ thể cấp hành chính, làm rõ vị trí tổ chức chính trị - xã hội...