Tiếp tục xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước giai đoạn 2011-2020
I. Kết quả chủ yếu xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước giai đoạn 2001-2010
Để xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 69/2003/QĐ-TTg ngày 29/4/2003 phê duyệt Chương trình xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước giai oạn 2003-2005 (giai đoạn I) và Quyết định số 770/QĐ-TTg ngày 23 tháng 6 năm 2008 việc phê duyệt Chương trình xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính nhà nước giai đoạn 2008-2010 (giai đoạn II).
Kết quả việc thực hiện Chương trình xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong thời gian qua cho thấy, những cải cách vừa qua tập trung nhiều vào nâng caochất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cả về phẩm chất và năng lực với kỹ năng hành chính đáp ứng yêu cầu phục vụ của bộ máy hành chính, đội ngũ cán bộ, công chức là công bộc của dân; tích cực thay đổi phương thức quản lý cán bộ, công chức, thể hiện trên các mặt sau:
1. Về số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức trong bộ máy hành chính nhà nước từng bước được nâng lên, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ. Năm 2005,Bộ Nội vụ đã tiến hành tổng điều tra, đánh giá đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan nhà nước. Kết quả điều tra cho thấy:
Tổng số công chức hành chính của Việt Nam (từ Trung ương đến cấp huyện) là 195.422 người, trong đó có 60.772 người là công chức nữ, chiếm 31,09%; 13.116 người dân tộc thiểu số, chiếm 6,71%; 54.091 người là công chức lãnh đạo, chiếm 27,53%. So với dân số nước ta vào cùng thời điểm năm 2005, công chức hành chính chiếm 0,24% dân số. Trong đó:
- Chuyên viên cao cấp và tương đương là 0,60%; chuyên viên chính và tương đương là 10,09%; chuyên viên và tương đương là 49,21%; cán sự và tương đương là 33,96%; nhân viên là 5,84% so với tổng số công chức.
- Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Tiến sĩ khoa học là 0,03% ;Tiến sĩ là 0,53%; Thạc sĩ là 2,44%; trình độ đại học là 61,48%; trình độ cao đẳng là 4,41%; trình độ trung học chuyên nghiệp là 25,60%; trình độ sơ cấp là 5,51%.
- Về trình độ lý luận chính trị: cao cấp là 10,43%; trung cấp là 30,21%; sơ cấp là 20,24%; chưa học lý luận chính trị là 39,12%.
- Về trình độ quản lý hành chính nhà nước: bồi dưỡng ngạch chuyên viên cao cấp là 0,77%; bồi dưỡng ngạch chuyên viên chính là 7,9%; bồi dưỡng ngạch chuyên viên là 30,71%; bồi dưỡng ngạch cán sự là 5,86%.
- Về trình độ ngoại ngữ: đạt trình độ A là 18,97%; đại trình độ B là 38,13%; đạt trình độ C là 8,09%; đạt trình độ D là 0,87%.
- Về trình độ tin học: đạt trình độ A là 32,93%; đạt trình độ B là 37,03%, đại trình độ C là 2%.
- Về độ tuổi của công chức hành chính: tuổi dưới 30 là 9,63%; tuổi từ 30 đến 40 là 31,25%; tuổi từ 41 đến 50 là 40,79%; tuổi từ 51 đến 60 là 18,02%; tuổi trên 60 là 0,32%.
Công chức hành chính là người dân tộc thiểu số chiếm 6,71% trong tổng số cán bộ, công chức hành chính toàn quốc; tập trung chủ yếu ở một số dân tộc sau: Mường 9,84%, Tày 47,52%, Thái 12,24%, Nùng 11,38% (số % này được tính trên tổng số người dân tộc thiểu số).
Đến thời điểm ngày 31/12/2009, theo báo cáo của các bộ, ngành, địa phương, tổng số công chức hành chính trong các cơ quan nhà nước của Việt Nam (từ Trung ương đến cấp huyện) là 270.943 người, trong đó có 94.246 người là công chức nữ, chiếm 34,78%; 16.580 người dân tộc thiểu số, chiếm 6,12%. Trong đó:
- Chuyên viên cao cấp và tương đương là 0,71%; chuyên viên chính và tương đương là 9,40%; chuyên viên và tương đương là 54,67%; cán sự và tương đương là 22,45%; nhân viên là 8,82%.
- Về trình độ chuyên môn kỹ thuật: Tiến sĩ là 0,95%; Thạc sĩ là 3,93%; đại học là 65,06%; cao đẳng là 3,52%; trung học chuyên nghiệp là 18,98%; sơ cấp là 8,51%.
- Về trình độ lý luận chính trị: cao cấp là 10,18%; cử nhân là 2,21%; trung cấp là 26,65%.
- Về trình độ ngoại ngữ: cao đẳng trở lên là 3,37%; có chứng chỉ ngoại ngữ là 57,62%.
- Về trình độ tin học: cao đẳng trở lên là 1,97%; có chứng chỉ tin học là 67,24%.
- Về tuổi hiện nay của công chức hành chính như sau: tuổi dưới 30 chiếm 19,09%; tuổi từ 30 đến 50 chiếm 65%; tuổi từ 51 đến 60 chiếm 18,90%; tuổi trên 60 chiếm 0,15%.
2. Về thể chế quản lý cán bộ, công chức
Công tác quản lý đội ngũ cán bộ, công chức tiếp tục được cải cách theo hướng rõ hơn về phân công và phân cấp. Đã có sự phân định khá rõ về trách nhiệm, thẩm quyền quản lý đội ngũ cán bộ, công chức của Thủ tướng Chính phủ, của các bộ và chính quyền địa phương. Thẩm quyển và trách nhiệm trong bổ nhiệm, sử dụng, khen thưởng, kỷ luật cán bộ, công chức cũng đã được xác định khá rõ cho người đứng đầu các cơ quan hành chính và thủ trưởng các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công. Đặc biệt, thẩm quyền và trách nhiệm của người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công được nâng cao đáng kể phù hợp với các cơ chế đã có về quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp, dịch vụ công.
Đã có sự phân biệt rõ hơn đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị nước ta: cán bộ qua bầu cử, công chức hành chính, viên chức sự nghiệp, cán bộ giữ chức vụ lãnh đạo trong doanh nghiệp nhà nước, cán bộ chuyên trách và công chức cấp xã. Trên cơ sở đó đã xác định những yêu cầu, tiêu chuẩn về trình độ, năng lực phẩm chất, cơ chế quản lý và chế độ, chính sách đãi ngộ thích hợp. Chủ trương, quan điểm của Đảng về tách hành chính với doanh nghiệp, với sự nghiệp đã được cụ thể hoá và triển khai thông qua các quy định, thể chế về công chức hành chính, viên chức sự nghiệp.
Đã tiến hành rà soát, đánh giá lại hệ thống các tiêu chuẩn chức danh công chức hiện có để từ đó có những điều chỉnh cũng thư ban hành mới một số chức danh, tiêu chuẩn nghiệp vụ các ngạch công chức, viên chức. Cho đến nay đã có khoảng hơn 300 chức danh tiêu chuẩn cán bộ, công chức đang được sử dụng, góp phần quan trọng vào công tác quản lý và sử dụng cán bộ, công chức. Đặc biệt, đã ban hành chức danh tiêu chuẩn công chức chuyên môn của chính quyền các xã, thông qua đó đẩy nhanh quá trình chuẩn hoá và đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở.
Cơ chế tuyển dụng công chức ngày càng hoàn thiện, nâng cao chất lượng, bảo đảm tuyển chọn được người có nặng lực, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ của nền công vụ. Nếu như từ năm 1998, khi có Pháp lệnh Cán bộ, công chức đến trước khi Pháp lệnh được sửa đổi vào năm 2003, đã có sự thay đổi cơ bản trong chế độ tuyển dụng cán bộ, công chức, đó là chuyển từ xét tuyển sang thi tuyển chung bắt buộc, thì sau năm 2003 đã có sự phân biệt khá rõ và phù hợp: đối với công chức hành chính bắt buộc qua thi tuyển, còn viên chức sự nghiệp được áp dụng cả 2 hình thức là thi tuyển và xét tuyển theo chế độ hợp đồng. Đến nay, theo quy định của Luật cán bộ, công chức đã bắt đầu thực hiện việc tuyển dụng theo vị trí việc làm và thông qua kỳ thi tuyển cạnh tranh.
Việc thi nâng ngạch đối với chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp và các ngạch tương đương tiếp tục được triển khai, qua đó tạo ra sự thay đổi tích cực góp phần nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức. Theo quy định của Luật cán bộ, công chức, từ năm 2010 sẽ tổ chức thi nâng ngạch công chức theo nguyên tắc cạnh tranh.
3. Về công tác cải cách tiền lương và các chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức
Công tác đảm bảo chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức như chế độ lương, chế độ hưu trí, bảo hiểm, trợ cấp... được triển khai thường xuyên, đầy đủ và tuân thủ chặt chẽ các quy định của Nhà nước. Các chế độ nâng lương định kỳ, nâng lương trước thời hạn, chế độ phụ cấp, chuyển ngạch, nâng ngạch của cán bộ, công chức được theo dõi chặt chẽ và đảm bảo chu đáo. Các chính sách về tiền lương, đãi ngộ, ưu đãi đối với người có công được ban hành trong thời gian qua đã có tác động tích cực đối với đội ngũ cán bộ, công chức và toàn xã hội.
Tuy nhiên, chính sách đối với cán bộ, công chức cho đến nay vẫn chưa theo kịp yêu cầu xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức trong thời kỳ mới, còn bất cập, chưa đồng bộ, chưa thống nhất. Chế độ, chính sách cũng chưa đủ sức khuyến khích được người tài, người năng động, sáng tạo, làm việc có hiệu quả, chất lượng. Chính sách tiền lương tuy có cải tiến nhưng vẫn lạc hậu, chưa đủ bù đắp giá trị sức lao động của cán bộ công chức, chưa đảm bảo cho cán bộ, công chức có đời sống ổn định, chuyên tâm vào công việc. Các chính sách về nâng ngạch, nâng bậc lương còn nặng về thâm niên, chưa phản ánh đúng chất lượng và hiệu quả công tác của cán bộ, công chức.
4. Về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã bước đầu được đổi mới theo hướng phù hợp với các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng. Bộ Nội vụ quản lý chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, chương trình đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý. Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản lý chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng chuyên ngành. Song song với quá trình này là sự đổi mới phương thức đào tạo, bồi dưỡng. Việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên tham gia đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức đã được chú trọng.
Đã có sự phân công giữa các cơ sở đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, theo đó, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh có nhiệm vụ tổ chức thực hiện chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch chuyên viên cao cấp và tương đương; theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp huyện, cấp sở, cấp vụ và tương đương trở lên và đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp sư phạm cho giảng viên trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; giảng viên các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ. Trường Chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có nhiệm vụ tổ chức thực hiện chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch cán sự, ngạch chuyên viên, ngạch chuyên viên chính và tương đương; theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương; theo tiêu chuẩn chức danh công chức cấp xã và các đối tượng khác do cấp có thẩm quyền giao. Các học viện, trường, trung tâm đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ có nhiệm vụ tổ chức thực hiện chương trình bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch cán sự, ngạch chuyên viên, ngạch chuyên viên chính và tương đương; theo tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý cấp phòng và tương đương; theo tiêu chuẩn chức danh công chức cấp xã theo chuyên môn nghiệp vụ và các đối tượng khác do cấp có thẩm quyền giao.
5. Tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
Hạn chế lớn nhất là chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà nước trong cơ chế mới. Mặc dù công tác đào tạo, bồi dưỡng được tăng cường, số lượng cán bộ, công chức qua các lớp, khoá đào tạo, bồi dưỡng khá lớn, nhưng nhìn chung chất lượng, nhất là kiến thức quản lý nhà nước còn hạn chế, bằng cấp, chứng chỉ tăng, nhưng chất lượng thật sự đang là vấn đề đáng lo ngại. Nội dung và phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức tuy đã có một số đổi mới, nhưng nhìn chung vẫn chưa có những cải cách cơ bản như Chương trình tổng thể đã đặt ra. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức suy thoái phẩm chất, đạo đức, tham nhũng, cửa quyền, thiếu ý thức trách nhiệm và tinh thần phục vụ, vô cảm trước yêu cầu của nhân dân, của xã hội. Các giải pháp mang tính đổi mới, theo hướng hiện đại hóa công tác quản lý cán bộ, công chức (như phân cấp, tăng cường trách nhiệm và thẩm quyền của người đứng đầu các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công, xây dựng hệ thống thông tin quản lý đội ngũ cán bộ, công chức.v.v...) chậm được triển khai, dẫn đến còn có cơ quan nhà nước vẫn ôm đồm nhiều việc và cản trở, can thiệp sâu vào hoạt động của các đơn vị cơ sở. Công tác quản lý, tuyển dụng, sử dụng, thi tuyển, thi nâng ngạch, đánh giá, luân chuyển, đề bạt cán bộ, công chức chậm thay đổi. Các phương pháp khoa học trong đánh giá kết quả công tác của từng cán bộ, công chức chậm được áp dụng để thay thế phương pháp đánh giá dựa vào tập thể là chủ yếu.
Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế: một số kết quả, sản phẩm dự kiến của việc thực hiện Chương trình hành động số 4 "Chương trình xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước giai đoạn 2001 -2010" chưa được hoàn tất, như việc chưa ban hành được cơ cấu công chức và quy chế đánh giá cán bộ, công chức; chưa xây dựng được cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công chức v.v... việc chỉ đạo tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện các thể chế đã có về cán bộ, công chức còn chậm và thiếu kiên quyết, vì vậy, để phân biệt rõ công chức hành chính và viên chức sự nghiệp đòi hỏi các bộ, ngành và chính quyền địa phương các cấp phải chỉ đạo triển khai cụ thể các quy định của Nhà nước về cán bộ, công chức trong phạm vi trách nhiệm của mình. Trong đó, phải giải quyết mối quan hệ về phân cấp quản lý cán bộ, công chức giữa bộ, tỉnh và các đơn vị sự nghiệp công lập trực thuộc. Tuy nhiên, trong thực tế, cách quản lý cán bộ, công chức ở khá nhiều bộ, ngành Trung ương và địa phương về cơ bản vẫn như cũ, chưa thực hiện việc phân cấp quản lý cán bộ, công chức cho các đơn vị sự nghiệp công lập. Một số quy định mới chậm được thực hiện và nhiều công việc trong quản lý cán bộ, công chức đáng ra do đơn vị cơ sở giải quyết thì các bộ, tỉnh vẫn phụ trách. Việc kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý cán bộ, công chức có vi phạm pháp luật làm không thường xuyên và không nghiêm. Tính răn đe, làm gương trong xử lý kỷ luật cán bộ, công chức còn chưa đáp ứng với yêu cầu. Chính vì vậy, đạo đức công vụ, thái độ phục vụ nhân dân của một bộ phận cán bộ, công chức còn yếu, gây mất lòng tin của nhân dân đối với cơ quan nhà nước.
II. PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG, NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC GIAI ĐOẠN 2011 -2020
Mục tiêu cải cách hành chính nhà nước hướng tới xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng phát triển của một nước công nghiệp hiện đại. Mục tiêu xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức giai đoạn đến năm 2020 là: xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và năng lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng phát triển nền công nghiệp hiện đại có số lượng, cơ cấu hợp lý phù hợp với yêu cầu thực tiễn, chuyên nghiệp, hiện đại, có phẩm chất tốt, có đủ năng lực thi hành công vụ, tận tuỵ phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước và phục vụ nhân dân.
Để chuẩn bị nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, đội ngũ cán bộ, công chức đến năm 2020 phải đạt được sự ổn định chuyên nghiệp, có phẩm chất chính trị tốt, được trang bị kiến thức toàn diện về kinh tế thị trường, quản lý hành chính nhà nước, pháp luật, kế thừa được các giá trị truyền thống dân tộc và tiếp thu được tri thức nhân loại để có đủ năng lực thực thi công vụ đạt hiệu quả. Cụ thể là:
- Về số lượng, cơ cấu của đội ngũ cán bộ, công chức: đội ngũ cán bộ, công chức phải có số lượng thích hợp, cơ cấu ngành nghề, ngạch bậc, vùng, trình độ, tuổi, giới tính và dân tộc đồng bộ và hợp lý.
- Về phẩm chất chính trị: luôn trung thành với Đảng, với Nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam, với danh dự và lợi ích của quốc gia, của dân tộc. Có quan điểm chính trị kiên định, vững vàng; hết lòng, hết sức phục vụ lợi ích chính đáng của nhân dân; dám đấu tranh với những tư tưởng, hành động sai trái để bảo vệ Đảng, bảo vệ lợi ích của nhân dân.
- Về trình độ năng lực: đội ngũ cán bộ, công chức được đào tạo và trang bị kiến thức trên các lĩnh vực chính trị, quản lý nhà nước, pháp luật, ngoại ngữ, tin học và các kiệt thức hội khác, có đủ kỹ năng chuyên môn để thực thi công vụ đạt hiệu quả, đáp ứng tốt các dịch vụ công của cơ quan nhà nước đối với người dân. Có đủ sức khoẻ và năng lực thực tiễn xây dựng chính sách, tổ chức điều hành và thực thi công vụ theo chức trách đảm nhiệm.
Để đạt được mục tiêu trên, việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước giai đoạn 2011 -2020 cần tập trung triển khai thực hiện một số nhiệm vụ chính sau:
1 .Hoàn thiện thể chế, cơ chế xây dựng quản lý cán bộ, công chức phù hợp với yêu cầu của nền hành chính hiện đại của một đất nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế quản lý cán bộ, công chức theo quy định của Luật cán bộ, công chức. Xây dựng hệ thống vị trí việc làm trong các cơ quan nhà nước, đồng thời xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, chức danh cán bộ, công chức lãnh đạo, quản lý. Tiến hành tổng rà soát, đánh giá và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh ngạch công chức, viên chức; xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, chức danh ngạch công chức; xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, chức danh nghề nghiệp của viên chức.
2. Thực hiện việc bố trí, phân công, đánh giá và sử dụng cán bộ, công chức trên cơ sở các tiêu chuẩn cụ thể, xác định rõ vị trí công tác của mỗi cán bộ, công chức trong bộ máy. Từng bước chuyển từ việc tuyển dụng, bố trí cán bộ, công chức theo hệ thống chức nghiệp sang tuyển dụng, bố trí cán bộ, công chức theo hệ thống vị trí việc làm. Có quy chế quản lý cán bộ, công chức khoa học theo hướng bảo đảm nguyên tắc đề cao vai trò, quyền hạn của thủ trưởng cơ quan hành chính các cấp và chế độ trách nhiệm của mỗi tổ chức, cá nhân cơ quan quản lý cán bộ, công chức; khen thưởng, kỷ luật nghiêm minh, kịp thời, để bảo đảm kỷ cương hành chính và hiệu quả của công tác quản lý. Thực hiện thống nhất các cơ chế: đánh giá cán bộ, công chức; tạo nguồn, tuyển chọn, sử dụng và quản lý nhân tài trong đội ngũ cán bộ, công chức. Xác định cơ cấu hợp lý cán bộ, công chức ở các cơ quan hành chính nhà nước. Trong đó chú trọng cơ cấu về trình độ đào tạo; cơ cấu về ngạch; cơ cấu về độ tuổi; cơ cấu về giới; cơ cấu tỷ lệ người dân tộc thiểu số...
3. Công chức được tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ, kỹ năng thực hành theo yêu cầu nghề nghiệp của từng loại công chức. Triển khai thực hiện thi nâng ngạch công chức theo nguyên tắc cạnh tranh, thi cạnh tranh để bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo quản lý từ cấp vụ và tương đương trở xuống. Phấn đấu 100% công chức hành chính thuộc các ngạch chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính và chuyên viên đáp ứng yêu cầu theo tiêu chuẩn ngạch về chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức quản lý nhà nước và lý luận chính trị. Trẻ hoá đội ngũ công chức, đồng thời kế thừa sử dụng tốt cán bộ chuyên gia có trình độ cao và nhiều kinh nghiệm công tác; đổi mới chính sách thu hút nhân tài vào đội ngũ công chức nhà nước.
4. Nâng cao trách nhiệm công tác và đạo đức công vụ của cán bộ, công chức. Nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật phấn đấu thực hiện tốt nhất nhiệm vụ được giao, chuyển biến rõ rệt về kỷ luật hành chính, tinh thần trách nhiệm đạo đức công vụ .
5. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các chính sách đối với cán bộ, công chức đặc biệt là chính sách tiền lương để khuyến khích đội ngũ cán bộ, công chức tận tâm tận lực với nhiệm vụ, phấn đấu rèn luyện, giữ gìn giá trị đạo đức, kỷ luật kỷ cương trong hoạt động công vụ. Đặc biệt là chính sách thu hút nhân tài vào làm việc trong các cơ quan, đơn vị của Nhà nước.
6. Chấn chỉnh, xây dựng và nâng cao chất lượng cơ quan quản lý cán bộ, công chức vững mạnh, bao gồm những người có năng lực, phẩm chất đạo đức công tâm với nhiệm vụ, có lối sống lành mạnh, không tham nhũng tiêu cực, tổ chức công việc khoa học, có hiệu quả. Cải tiến và hiện đại hoá công tác quản lý hồ sơ công chức, đưa công nghệ thông tin và các công cụ quản lý hiện đại khác vào áp dụng rộng rãi trong quản lý đội ngũ cán bộ, công chức.
7. Tăng cường kiểm tra công tác quản lý cán bộ, công chức từ khâu tuyển dụng, sử dụng và nhất là khâu đánh giá chất lượng hoạt động công vụ của cán bộ, công chức để kịp thời điều chỉnh, bổ sung các chính sách cho phù hợp với yêu cầu và đòi hỏi khách quan trong từng giai đoạn của việc xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.








