...Tiễn thuyền vua Lý đang dời kinh đô
Lý Công Uẩn cũng gánh chức Thập đạo Tướng quân triều Tiền Lê. Sử liệu cho biết: Năm Kỷ Dậu (1909), sau khi Lê Ngọa Triều mất, thì Đào Can Mộc thay mặt các quan trong triều và cao tăng Vạn Hạnh thay mặt tăng chúng tôn phù Lý Công Uẩn lên ngôi Hoàng đế mở đầu nhà Lý.
Lý Công Uẩn lên ngôi ngày Quý Sửu, tháng 10, mùa đông năm Kỷ Dậu (22-11-1009). 9 tháng sau, ông tuyên “Thiên đô chiếu”. Tại sao La Thành được chọn ? Chiếu ghi: “... Huống gì thành Đại La, Kinh đô của Cao Vương, ở vào nơi trung tâm trời đất, được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng nơi Nam Bắc Đông Tây; lại tiện hướng nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng phong phú tốt tươi. Xem khắp đất Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn tụ hội trọng yếu của bốn phương đất nước; cũng là nơi Kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.
Cuộc dời đô long trời chuyển đất này bằng đường thủy, vì đường bộ không kham nổi gánh nặng của bộ máy triều đình.
Tháng 7, mùa thu, trời xanh ngăn ngắt, thời tiết dịu êm. Gió Đông Nam lồng lộng thổi căng những cánh buồm Thiên đô. Chuyến đi lịch sử được trao cho thủy binh - những trạo nhi thạo vùng vẫy sông nước Hoa Lư. Theo Hoàng Xuân Hãn và “Việt sử lược”, nhà nước thời ấy đã có những xưởng thuyền lớn, hàng năm xuất vài trăm thuyền chiến mang những tên đẹp: Vĩnh Xuân, Vĩnh Long, Nhật Quang, Thanh Lan, Phụng Tiên, Trường Quyết. Kỳ diệu nhất là Mông Đồng, loại thuyền chở vua ra trận; cả một cung điện nổi. Thuyền chiến Lý có khả năng chở nặng, đi xa, đã đánh tới Chiêm Thành phía Nam, Khâm Châu phía Bắc...
Người viết bài này chính quê ở Hoa Lư, đã nhiều lần trở lại bến Ghềnh Tháp, nơi đoàn thuyền Lý năm nào vung mái chèo dời đô. Nay bến còn đó, lặng lẽ bên ngọn núi cao. Đường về đây đi qua đền thờ vua Đinh, vua Lê, về phía Xuyên Thủy Động, dân gọi hang Luồn. Đứng nơi đây, không gian như còn vang vọng những âm thanh hào hùng của cuộc thao diễn thủy quân. Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành đều là những triều vua đánh thủy giỏi, với những tướng tài cỡ Phạm Cự Lượng... Chúng tôi đứng sát mép nước, phóng tầm mắt bao quát cả một vùng bao la. Cánh đầm lớn hơn chục lần hồ Trúc Bạch ba bề núi dựng, chót vót trên đỉnh ngất ngưởng đàn dê ăn lá thuốc. Chỉ một con đường dẫn vào bến qua cửa đền vua Đinh. Hẳn là đặt một vọng gác ở đó thì trong này thủy quân thao diễn kín như bưng, không có con mắt nào dò thám được. Giờ năn, lác, bèo Nhật Bản mọc dày đặc, ngồi thuyền tre cật phải lấy tay rẽ ra mà đi. Nghe nói bến Ghềnh Tháp, sông Sào Khê và cái đầm rộng kia sẽ được cải tạo để “dáng xưa trở lại”.
Hãy thử tưởng tượng ngày tháng 7 năm 1010 ấy. Cúi chào cố đô Hoa Lư, vị vua khai triều phát lệnh rời Ghềnh Tháp, mắt chăm chăm nhìn lại ngọn Mã Yên trên đỉnh phần phật lá cờ đại chói chang màu đỏ. Thuyền qua Cầu Đông, Cầu Dền, ra bến đò Trường Yên, nơi Ông - Tướng - Cờ - Lau thuở còn để chỏm được rồng từ trên trời cao hạ xuống đón qua sông rộng để trốn cơn cuồng nộ của ông chú Đinh Dự. Rồng cõng Vua Con Đinh Bộ Lĩnh qua sông, cả bầu trời Hoa Lư rực lên màu đỏ và vàng, con sông thành tên Hoàng Long từ đó. Rồng Bay Thăng Long, Rồng Vàng Trường Yên là những sự kiện lớn trong các triều vua Đinh, Lê, để rồi trở thành những dấu ấn trong tâm linh mỗi con dân Đại Việt.
Có nên “giới thiệu” câu chuyện đẹp này chăng? Lý Công Uẩn từ quê Bắc Ninh tìm vào Hoa Lư để phụng sự triều Tiền Lê. Bà vợ họ Lê của ông sinh con trai Lý Phật Mã tại kinh Hoa Lư ngày 26-6 năm Canh Tý, tức năm 1000. Tuổi thơ Lý Phật Mã hẳn quen với lời ru vùng chiêm trũng, tiếng trống chèo trong khúc “Chinh tòng chinh” (Đi chiến đấu) tiễn quân ra trận. Tái dê Trường Yên, xôi cá rô, mắm tép Gia Viễn, bao món ăn giờ đã trở thành đặc sản như cà cuống, cà niễng, ba ba, cá bống núi, rươi... hẳn đã qua môi cậu bé, sau này trở thành Lý Thái Tông, vì vua thứ hai của vương triều kéo dài 215 năm.
Kể từ ngày đoàn thuyền xưa “chào” bến Ghềnh Tháp để về Thăng Long đến nay, chỉ còn vài mùa gió Đông Nam là tròn 1000 năm. Dập dìu cánh hạc bay đôi, Tiễn thuyền vua Lý đang dời Kinh đô. Cánh hạc bay lên từ núi Hồi Hạc, một cảnh đẹp của thị xã Ninh Bình. Dân chúng Trường Yên đứng dọc sông Sào Khê tiễn vua, cảnh tượng thật đáng bồi hồi. Nghĩa tình với cố đô Hoa Lư, đất Thanh Hoa Ngoại, với Ninh Bình của dân chúng cả nước, đặc biệt là Thăng Long - Hà Nội vẫn còn tràn trề, như một gánh nặng...
Nguồn: hanoimoi.com.vn 26/6/2006