Thực trạng và hy vọng trong ngành chăn nuôi
1. Những thay đổi trong môi trường kinh tế-xã hội:
Sự gia tăng dân số và đô thị hoá
Theo các dự án của Liên hợp quốc, dân số Việt Nam sẽ tăng từ 85,3 triệu trong năm 2000 lên 102,5 triệu trong năm 2020, vào khoảng 1,26% năm. Sự gia tăng này sẽ không cân xứng vì nó cũng kéo theo sự đô thị hoá. Dân số nông thôn cũng vẫn tăng nhưng ở mức độ thấp hơn và vẫn áp đảo; nó sẽ chiếm tỷ lệ từ 80,3% của tổng dân số trong năm 2000 còn 72,7% trong năm 2020. Như vậy, bức tranh tổng thể vẫn sẽ là dân số nông thôn là chính mặc dù mức độ đô thị hoá nhanh.
Những liên quan ảnh hưởng đến chăn nuôi
- Tăng dân số sẽ gia tăng nhu cầu các sản phẩm chăn nuôi xuất phát từ tăng thu nhập và sự thay đổi về dinh dưỡng thức ăn động vật, đồng thời cũng yêu cầu cao hơn về chất lượng và sự an toàn.
- Dân số gia tăng 10,3% sẽ tăng áp lực đối với môi trường tự nhiên, và cũng sẽ phải tăng năng suất của các trại chăn nuôi nhỏ.
Sự tăng trưởng của nền kinh tế
Trong thập kỷ vừa qua nền kinh tế đã tăng trưởng ở mức 7,6%/năm, trong đó tăng trưởng về công nghiệp 11,20%, về các ngành dịch vụ là 7,6% và đối với nông nghiệp là 4,2%. Sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp thường tập trung quanh các thành phố lớn, nơi tập trung số đông các hoạt động dịch vụ và công nghiệp phát triển.
Mong muốn phát triển ngành nông nghiệp có đạt được hay không thường phụ thuộc vào 2 yếu tố:
- Sự giải phóng ngành nông nghiệp phải được mở rộng đến các ngành công nghiệp và dịch vụ.
- Thay đổi cơ cấu nền kinh tế và sự chuyển hoá tiếp theo trong lực lượng sản xuất sẽ tạo ra cơn sốt về môi trường và xã hội. Sự lựa chọn các chính sách thích hợp sẽ xác định mức độ đói nghèo ở các vùng nông thôn đến mức độ nào sẽ lớn hơn hay nhỏ hơn. Nó cũng sẽ xác định mức độ phá huỷ môi trường sau khi có sự tập trung phát triển vào một số ngành chủ chốt.
Ngành nông nghiệp dự đoán sẽ tăng trưởng khoảng 4%/năm trong thập kỷ tiếp theo với năng suất cũng như vậy. Sự tăng trưởng trong thập kỷ tiếp theo chủ yếu từ các đa dạng hoá các sản phẩm nhằm vào các loại cây, con và thuỷ sản có giá trị cao, phát triển thị trường và các nguồn vốn đầu tư thông qua việc sử dụng các kỹ thuật tiên tiến. Sự tăng trưởng vừa qua phụ thuộc nhiều vào thị trường xuất khẩu. Sẽ đòi hỏi các đầu tư cơ bản trong cơ sở hạ tầng nông thôn, ở các cơ sở nghiên cứu và những thay đổi trong cơ chế chính sách để thúc đẩy động viên các thành phần kinh tế tư nhân trong các vùng nông thôn.
Sự đói nghèo đối tượng vẫn là nông thôn
Việt Nam đã có tiến bộ đáng kể trong cuộc chiến với đói nghèo của thập kỷ vừa qua. Từ năm 1993 đến năm 1998 tỷ lệ người nghèo đã giảm từ 58% xuống còn 37%. Tuy nhiên tỷ lệ này còn thấp hơn dự kiến, nhất là trong ngành nông nghiệp.
Lấy phát triển nông nghiệp tại các thành phố làm chiến lược để xoá đói giảm nghèo sẽ thất bại, vì ở nông thôn sẽ gia tăng dòng người nhập cư vào các thành phố. Cần lựa chọn chiến lược đúng đắn là nông nghiệp hoá trên nền nông nghiệp hiện đại.
Ngành chăn nuôi có khả năng góp phần xoá đói giảm nghèo với một số lý do sau:
- Tương phản với nông nghiệp, chăn nuôi phải đối mặt với sự phát triển thị trường do nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng.
- Đất đai chật hẹp đòi hỏi nông nghiệp phải chuyển hướng sang sản xuất các sản phẩm có giá trị cao hơn đối với 1 đơn vị diện tích, điều mà chăn nuôi có thể làm được.
- Chăn nuôi phần lớn tập trung trong các nông hộ nhỏ, quy mô được coi là có hiệu quả hơn so với các trang trại quy mô vừa và lớn.
- Khép kín giữa chăn nuôi và trồng trọt có thể sẽ thu được kết quả hơn cho cả hai ngành.
- Chăn nuôi có thể là động cơ quan trọng của tăng trưởng thông qua tăng thu nhập trong các vùng nông thôn và thông qua mối liên kết với các ngành thương mại và công nghiệp.
- Toàn ngành đã và đang tập trung mọi cố gắng vào các nhu cầu của người chăn nuôi nhỏ, và phát triển các mối liên kết chặt chẽ hơn với công nghiệp hoá nông thôn.
- Với đòi hỏi ngày càng tăng của đô thị, nhu cầu quan tâm đến chất lượng sản phẩm ngày càng cao. Cần phải xây dựng các tiêu chuẩn an toàn vệ sinh tốt hơn trong chăn nuôi và tiếp thị sản phẩm chăn nuôi của mình. Có rất nhiều các kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu này trong việc phát triển các dịch vụ hoàn hảo thường xuyên.
Môi trường thương mại quốc tế
Thương mại các sản phẩm nông nghiệp ngày càng thuộc về quỹ đạo của tổ chức mậu dịch thế giới, tổ chức đã mang lại sự cạnh tranh dữ dội hơn trong 10 năm tới và dần loại bỏ các trở ngại bảo hộ. Điều này sẽ mang lại sự chú trọng về chất lượng và an toàn thực phẩm. Hơn thế nữa, Việt Nam sẽ ngày càng phải đối phó với sự cạnh tranh trên thế giới nơi đang rất coi trọng chất lượng.
Việt Nam chỉ có thể cạnh tranh với thương nghiệp thế giới về lợn và gia cầm nếu các sản phẩm này đạt tiêu chuẩn chất lượng cao. Nhưng, thị trường nội địa đã phát triển quá nhanh đến nỗi nó đã tiêu thụ hết công suất sản xuất. Đó cũng là điều đáng mừng.
Theo dự đoán của IFPRI giá cả các mặt hàng quan trọng nhất có thể sẽ có chiều hướng giảm và sự giảm giá ngũ cốc sẽ tốt hơn nhiều, nếu không do cuộc cách mạng về chăn nuôi làm tạm thời tăng nhu cầu về ngũ cốc. Chiều hướng này nó tạo cơ hội cho việc nhập khẩu các loại thức ăn có chất lượng cao nhằm tăng năng xuất chăn nuôi. Giá thịt bò, thịt lợn và thịt gia cầm sẽ có thể giảm khoảng 10% từ nay cho đến năm 2010 chỉ cho phép những nhà chăn nuôi có hiệu quả mới có thể tồn tại.
2. Thực trang và hy vọng trong ngành chăn nuôi
Tăng nhu cầu
Nhu cầu về thịt tăng khoảng 6% năm trong thập kỷ qua và nò còn có khả năng tăng đáng kể trước khi dừng lại. Thực vậy, ở mức độ 21,2 kg/đầu người, các nước đang phát triển trung bình tiêu thụ 25 kg/đầu người.
Sự gia tăng nhu cầu về thịt trong tương lai sẽ phụ thuộc vào mức tăng dân số ước tính khoảng 1,25%/năm trong thập kỷ tiếp theo, và tăng thu nhập ước tính vào khoảng từ 7 – 8% trong cùng thời gian. Trong một nghiên cứu gần đây của IFPRI cho thấy rằng mức tăng sức tiêu thụ thịt tương quan với sự tăng trưởng tổng sản phẩm quốc dân tính theo đầu người. Mức tăng thu nhập ước tính tăng 7 – 8% trong thập kỷ qua sẽ làm tăng mức tiêu thụ theo đầu người hàng năm với tỷ lệ khoảng 4%. Tóm lại, mức tiêu thụ thịt phải tăng từ 5 – 6%/năm trong thập kỷ tới. Điều này có nghĩa là nhu cầu về thịt sẽ tăng từ 1,8 triệu tấn trong năm 2000 lên 3 triệu tấn vào cuối thập kỷ này.
Tăng nguồn cung cấp
Việt Nam sẽ không tham gia vào thương mại quốc tế về thịt, sản xuất trong nước sẽ thoả mãn nhu cầu nội địa. Điều này sẽ phản ánh một tỷ lệ tăng trưởng lớn hơn đối với nganh chăn nuôi (5 – 6%) so với toàn bộ ngành nông nghiệp, khoảng 4,6%, và chúng ta phải mong đợi ngành này giữ được tầm quan trọng trong nền kinh tế quốc gia so với nông nghiệp.
Sản lượng đối với các loại gia súc khác nhau ở Việt Nam đã tăng trong giai đoạn 1900 – 1999, mức tăng nhanh chóng về tiêu thụ thịt bằng cách tăng đàn chứ chưa phải là tăng năng suất theo cách tính sản lượng mà theo cách này nó chỉ tăng khoảng 1%. Tiếp tục tăng đàn sẽ dẫn tới những khó khăn về địa điểm chăn nuôi, vì các trang trại nhỏ (dưới 0,7 ha) và bị chia nhỏ theo từng thửa (cao nhất 8 thửa do một trang trại ở vùng Tây Bắc). Tăng năng suất còn thông qua các cải tiến về giống, dinh dưỡng, thú y sẽ là các chủ đề cần được quan tâm hơn nữa.
Tập trung vào các trang trại nhỏ, chăn nuôi trồng trọt kết hợp.
Đa số người chăn nuôi thuộc vào nhóm không chuyên con. Họ thường kết hợp chăn nuôi một số loại gia súc với việc trồng trọt. Sự chăn nuôi thường thấy là kết hợp giữa chăn nuôi gia cầm và nuôi lợn. Những người chăn nuôi nhỏ thường dựa chủ yếu vào lao động của gia đình (92%), tỷ lệ này cao hơn đáng kể so với tỷ lệ của ngành nông nghiệp nói chung (62%).
Hộ chăn nuôi nhỏ có các nhu cầu về giống và nuôi dưỡng gia súc
Các hộ chăn nuôi nhỏ dựa vào các giống địa phương nhiều hơn so với các hộ chăn nuôi có ít nhất 1 – 2 con lợn lai hoặc lợn ngoại và có khoảng 10% số hộ chỉ nuôi lợn ngoại. Các giống lợn địa phương được nuôi bằng khẩu phần chủ yếu là thức ăn thô trong khi khẩu phần nuôi các giống lai gồm thức ăn thô và thức ăn hỗn hợp; còn khẩu phần cho lợn ngoại là thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh.
Lợi nhuận của hộ chăn nuôi nhỏ
Chăn nuôi quy mô nhỏ có tỷ suất lợi nhuận cao hơn đáng kể so với chăn nuôi quy mô lớn. Việc thu lợi nhuận khi tăng quy mô chủ yếu là do các hộ chăn nuôi nhỏ sử dụng các thức ăn giá rẻ, lao động sẵn có của gia đình và chi phí đầu vào thấp nhất. Điều này cho thấy là hiệu quả chăn nuôi của các hộ nhỏ có thể lớn hơn các hộ chăn nuôi lớn sử dụng thức ăn chất lượng cao.
Đầu vào, thông tin và marketing
Đầu vào cho chăn nuôi chủ yếu do tư nhân đảm nhiệm. Người chăn nuôi nhỏ mua gia súc từ các hộ chăn nuôi khác trong khi các hộ chăn nuôi lớn mua giống gia súc từ các cơ sở nhà nước. Khu vực tư nhân là thành phần chủ yếu phân phối thức ăn và dụng cụ thú y (có nơi hợp tác xã cung cấp các dịch vụ thú y). Người chăn nuôi có được thông tin về giá cả và thị trường chủ yếu từ người kinh doanh và người chăn nuôi khác hoặc những thông tin có được từ báo chí và đài phát thanh. Chỉ có 2% trong tổng số hộ chăn nuôi tham gia vào các hợp đồng cung cấp sản phẩm chăn nuôi vì thiếu các đơn vị thu mua sản phẩm ở hầu hết các lĩnh vực của ngành chăn nuôi. Phần lớn gia súc được bán tại nhà cho người chăn nuôi khác hoặc cho lái buôn và rất ít được bán trực tiếp cho người tiêu dùng.
Tăng năng suất chăn nuôi của các hộ chăn nuôi nhỏ
Năng suất của gia súc nuôi trong các hộ chăn nuôi nhỏ nhìn chung là thấp nhưng vẫn cao hơn sản xuất nông nghiệp. Việc nâng cao năng suất chăn nuôi sẽ tuỳ thuộc nhiều vào việc tăng tỷ lệ nuôi thích nghi được các giống ngoại. Các tiến bộ trong việc thích nghi các giống ngoại đang gặp phải những trở ngại lớn là: (1) có ít các giống ngoại phù hợp với hộ chăn nuôi nhỏ; (2) nông dân ít có cơ hội để có được các nguồn giống ngoại thích hợp; (3) vốn của nông dân chăn nuôi nhỏ lẻ còn ít, không đủ vốn để mua được những giống ngoại tốt có năng suất cao. Các chương trình nhân giống nên chú ý hơn đến nhu cầu của hộ chăn nuôi nhỏ là cần các giống có thể sinh trưởng tốt khi nuôi bằng khẩu phần chất lượng thấp, từ nguồn thức ăn sẵn có ở địa phương.
Thú y và chế biến sản phẩm chăn nuôi
Tình trạng sức khoẻ kém của gia súc nuôi ở các hộ gia đình và việc ít đầu tư cho công tác thú y đã làm cho tỷ lệ chết của gia súc khá cao (tương đương với 4% tổng thu từ chăn nuôi). Tình trạng này là do trình độ nhận thức của nông dân thấp và các dịch vụ nhằm giáo dục nông dân trong vấn đề này còn rất hạn chế.
Ngành chế biến các sản phẩm chăn nuôi vẫn còn kém phát triển. Các tiêu chuẩn về chất lượng thịt còn thấp và chưa đáp ứng được tiêu chuẩn của các nước trong khối ASEAN. Điều kiện vệ sinh môi trường của các lò giết mổ nhìn chung thường kém. Chưa có hệ thống xếp cấp chất lượng thit, cũng chưa có dây chuyền lạnh để đảm bảo việc phân phối các sản phẩm chất lượng. Vẫn có tiềm năng đáng kể cho ngành chế biến nhưng chưa khai thác được vì nguồn cung cấp không đảm bảo.