Tháo những “nút thắt” cản trở sự phát triển khoa học công nghệ
Tuy nhiên, việc sử dụng cán bộ KHCN và trọng dụng người tài; cơ chế đặt hàng nhiệm vụ KHCN, cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; huy động nguồn đầu tư từ xã hội cho hoạt động KHCN...còn nhiều vướng mắc.
Đó là những nội dung được các vị khách mời gồm: ông Chu Ngọc Anh, Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ; ông Lê Bộ Lĩnh - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội và ông Nguyễn Đăng Vang - Chủ tịch Hội Chăn nuôi Việt Nam trao đổi tại buổi Giao lưu trực tuyến “Khoa học và công nghệ - Động lực, nền tảng phát triển đất nước” do Báo Đại biểu nhân dân tổ chức ngày 6/11/2012 tại Hà Nội.
Theo Thứ trưởng Chu Ngọc Anh, từ khi có Nghị quyết Trung ương 2 Khóa VIII (năm 1996), đặc biệt là trong khoảng 10 năm trở lại đây, công tác quản lý KHCN đã có những đổi mới sâu rộng và đã đạt các kết quả tích cực. Hệ thống pháp luật về KHCN đã cơ bản hoàn thiện với 8 đạo luật chuyên ngành điều chỉnh thống nhất, đồng bộ, toàn diện các hoạt động KHCN tạo thuận lợi cho các chủ thể (nhà khoa học, doanh nhân, người quản lý) tham gia tích cực vào hoạt động sáng tạo.
Công tác quản lý khoa học và công nghệ đã đổi mới từ cách nghĩ đến cách làm để hòa nhập với sự đổi mới chung về KT-XH, chú trọng hơn tính hiệu quả, tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi để hướng KHCN phục vụ doanh nghiệp; thúc đẩy các tổ chức KHCN hoạt động theo cơ chế tự chủ, phát triển doanh nghiệp khoa học và thị trường công nghệ...
Trong lĩnh vực công nghiệp, Việt Nam đã làm chủ công nghệ thiết kế, chế tạo hệ thống cơ khí thủy công cho nhà máy thủy điện công suất lớn, giàn khoan tự nâng ở độ sâu 90m nước phù hợp với điều kiện Việt Nam; lĩnh vực nông nghiệp - lâm nghiệp - thủy sản ứng dụng các kết quả nghiên cứu và tiến bộ KHCN đã đóng góp 30% giá trị gia tăng trong nông nghiệp gia tăng giá trị xuất khẩu trong lĩnh vực này lên mức gần 20 tỷ USD/năm, đứng hàng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, cao su, điều...;
Lĩnh vực y - dược đã thành công trong việc ghép tạng, nghiên cứu và bước đầu ứng dụng tế bào gốc; lĩnh vực giao thông - xây dựng đã làm chủ các công nghệ tiên tiến trong thiết kế, chế tạo, giám sát, thi công, xây lắp các công trình giao thông, xây dựng có quy mô và trình độ công nghệ ngang tầm các nước trong khu vực như công nghệ thi công cầu treo, cầu dây văng nhịp lớn, công nghệ công nghệ đúc hẫng cân bằng thi công cầu bê tông dự ứng lực khẩu độ lớn, ...; lĩnh vực công nghệ cao đã có nhiều nhà khoa học trẻ thành công với việc làm chủ được công nghệ và tạo ra các sản phẩm có khả năng cạnh tranh quốc tế.
Ông Nguyễn Đăng Vang cũng cho rằng, trong 10 năm qua, KH&CN đã thực sự góp phần thúc đẩy hoạt động sáng tạo phát triển kinh tế tri thức, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với tốc độ nhanh hơn. Chỉ tính trong lĩnh vực nông nghiệp, nhờ áp dụng công nghệ cao trong chọn giống chúng ta có giống cà phê 4-6 tấn/ha với chất lượng cao; với lúa gạo, việc đưa ra gần 70 giống, trong đó có giống đạt 6-8 tấn/ha đưa nước ta trở thành nước xuất khẩu thứ nhất, thứ hai thế giới.
Trên thế giới cũng chưa từng có nước nào như Việt Nam nuôi cá tra đạt 500-600 tấn cá/ha, trung bình là 250 tấn/ha, doanh thu 6 tỷ đồng/ha. Trong chăn nuôi chúng ta lai tạo giống lợn có tỷ lệ nạc cao 58-62%, bò sữa trên 7 tấn sữa/chu kỳ, gà trên 280 trứng/năm...
Thứ trưởng Chu Ngọc Anh nhấn mạnh, Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và chỉ còn 8 năm để hoàn thành mục tiêu đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Nếu trình độ khoa học và công nghệ của Việt Nam tiếp tục lạc hậu, nếu việc ứng dụng sáng tạo thành tựu khoa học và công nghệ chưa trở thành yếu tố tăng trưởng và tăng năng suất quan trọng nhất thì mục tiêu trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 sẽ khó thực hiện được.
“Vì vậy, trong giai đoạn nước rút này, cần tập trung mọi nguồn lực để phát huy và phát triển khoa học và công nghệ thành động lực quan trọng nhất trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, tốc độ phát triển và sức cạnh tranh của nền kinh tế, bảo vệ môi trường” - Thứ trưởng Chu Ngọc Anh khẳng định.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Chu Ngọc Anh cũng cho rằng, chúng ta còn thiếu một số cơ chế, chính sách quan trọng như chính sách sử dụng cán bộ KHCN và trọng dụng người tài; chính sách nhập khẩu công nghệ; cơ chế đặt hàng nhiệm vụ KHCN.... Bên cạnh đó, một số chính sách đã có nhưng chưa thực hiện được đến nơi đến chốn nên chưa phát huy được hiệu quả như công tác xây dựng và triển khai thực hiện nhiệm vụ KHCN; cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm; huy động nguồn đầu tư từ xã hội cho hoạt động KHCN, hỗ trợ doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia hoạt động KHCN,... tỷ trọng đầu tư từ ngân sách nhà nước vẫn chiếm phần lớn.
Vấn đề hiện nay là nhà nước tiếp tục duy trì mức đầu tư ngân sách để quan tâm đúng mức cho nghiên cứu cơ bản, các chương trình công nghệ quốc gia để tạo ra các sản phẩm quốc gia mang thương hiệu Việt Nam, phát triển và ứng dụng công nghệ cao trong những lĩnh vực kinh tế trọng điểm…
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học, Công nghệ và Môi trường của Quốc hội Lê Bộ Lĩnh thừa nhận tư duy bao cấp còn ảnh hưởng khá nặng đến cơ chế tài chính và ngân sách cho hoạt động khoa học và công nghệ. Ông Lĩnh phân tích, hiện nay khoa học công nghệ được coi là một hoạt động hành chính sự nghiệp, vì vậy cơ chế tài chính và ngân sách cho khoa học công nghệ chịu sự chi phối của cơ chế hành chính sự nghiệp nói chung. Ngân sách cho khoa học công nghệ được cấp theo niên độ tài chính và việc phân bổ mang tính bình quân, trải đều cho các cấp thụ hưởng ngân sách.
Chính vì vậy, mặc dù tỷ trọng của chi ngân sách cho khoa học công nghệ luôn được bảo đảm theo quy định nhưng lại không thể tập trung để giải quyết các nhiệm vụ khoa học công nghệ thiết yếu. Không ít trường hợp, kinh phí hoạt động khoa học được dành cho các hoạt động nghiệp vụ thuộc chức năng của các đơn vị hành chính sự nghiệp.
Ngoài ra, tư duy hành chính cũng ảnh hưởng đến hoạt động khoa học công nghệ ở cấp doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp chưa nhận thức được vai trò của nghiên cứu phát triển trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Các cơ quan quản lý còn muốn can thiệp sâu vào hoạt động khoa học của doanh nghiệp. Chính điều này đã hạn chế việc huy động các nguồn lực tài chính của xã hội, trước hết của doanh nghiệp cho phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ.
“Nếu chúng ta xem mọi đề án, dự án phát triển nào cũng cần phải dựa trên các luận cứ khoa học và để đạt được các mục tiêu đề ra phải có một giải pháp công nghệ phù hợp thì sẽ có một cơ chế tài chính thỏa đáng cho khoa học công nghệ phát triển” - ông Lĩnh cho hay.
Tại buổi giao lưu, Thứ trưởng Chu Ngọc Anh cho biết, để giải quyết được tổng thể các vướng mắc, tồn tại hiện nay, Bộ KH&CN và Bộ Tài chính đang phối hợp cùng các bộ, ngành nghiên cứu thống nhất, đổi mới cơ chế tài chính cho phù hợp với đặc thù hoạt động KHCN.
Đồng thời, tăng cường huy động đầu tư hiệu quả từ xã hội thông qua hai kênh: chủ động tìm kiếm đối tác quốc tế để giải quyết những vấn đề quan trọng của nền kinh tế, thông qua đó huy động được công nghệ tiên tiến tăng cường hạ tầng, tiềm lực năng lực nghiên cứu trong nước cũng như nguồn lực cho các hoạt động nghiên cứu sáng tạo. Và huy động đầu tư trực tiếp từ các doanh nghiệp với tư cách là trung tâm của hoạt động đổi mới, là nguồn cầu quan trọng nhất của việc phát triển thị trường công nghệ.








