Tăng cường quản lý Nhà nước để phát triển làng nghề phục vụ mục tiêu xây dựng nông thôn mới
1.Làng nghề là một nét bản sắc riêng của nền kinh tế Việt Nam đã có từ lâu đời. Việc bảo tồn và phát triển làng nghề theo phương châm “mỗi làng một sản phẩm”, phát triển ngành, nghề theo thế mạnh của từng địa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển ngành nghề nông thôn, chuyển đổi cơ cấu kinh tế - xã hội ở khu vực nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đất nước.
Cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác đẩy mạnh phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn, nhiều địa phương đã chủ động tổ chức sản xuất, khôi phục lại ngành, nghề truyền thống, tìm kiếm và mở rộng thi trường trong và ngoài nước. Nhiều nghề truyền thống được khôi phục và phát triển.
Những năm qua khi chuyển đổi từ nghề nông sang phi nông nghiệp, những lao động làm nghề phi nông nghiệp như thủ công mỹ nghệ có thu nhập ổn định và thường cao gấp 3-4 lần so với lao động thuần nông. Tỉ lệ hộ nghèo trong các khu vực ngành nghề phi nông nghiệp đã giảm đáng kể so với tỉ lệ hộ nghèo bình quân ở các địa phương trên cả nước. Kim ngạch xuất khẩu thuộc các ngành hàng nông thôn xuất khẩu sang thị trường của hơn 100 nước trên thế giới liên tục tăng: năm 2006, đạt 630 triệu USD; năm 2007, đạt 700 triệu USD; năm 2008 đạt 850 triệu USD; năm 2009 do khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên kim ngạch xuất khẩu chỉ đạt 680 triệu USD; năm 2010, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng gốm sứ, thủy tinh, đồ gỗ và các mặt hàng thủ công mĩ nghệ khác đều tăng từ 12-30% và đạt kim ngạch xuất khẩu 1 tỉ USD.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, đối với lĩnh vực bảo tồn và phát triển làng nghề, nhìn chung, hiệu quả kinh tế vẫn chưa cao. Tình trạng tự phát và phân tán vẫn khá phổ biến do việc chỉ đạo và quản lý thiếu thống nhất, chồng chéo. Hiện nay, có trên 80% các cơ sở không đủ vốn đầu tư đổi mới kỹ thuật, mở rộng quy mô sản xuất và sử dụng công nghệ, thiết bị lạc hậu. Có khoảng 35% số cơ sở ngành, nghề nông thôn thiếu nguyên liệu trầm trọng, chỉ duy trì sản xuất cầm chừng với nguồn nguyên liệu không ổn định. Sự liên kết giữa các làng nghề, nghệ nhân, thợ thủ công và các doanh nghiệp còn lỏng lẻo. Chất lượng nhiều loại sản phẩm chưa đồng đều, giá cả thiếu cạnh tranh. Bên cạnh đó, hoạt động xây dựng và quảng bá thương hiệu làng nghề, doanh nghiệp và sản phẩm truyền thống, bảo vệ bản quyền trí tuệ, kiểu dáng công nghiệp ở các làng nghề còn chưa chặt chẽ. Ngay cả với các sản phẩm giả cổ cũng chưa thể hiện được rõ nét bản sắc văn hóa dân tộc trong sản phẩm truyền thống của nhiều doanh nghiệp làng nghề. Công tác đào tạo, hướng dẫn, truyền nghề tuy đã được quan tâm nhưng chưa đủ đáp ứng nhu cầu về lao động, việc làm cho khu vực nông nghiệp, nông thôn, kéo theo tình trạng thiếu việc làm, khiến cho lực lượng lao động ở nông thôn đến thành thị tìm việc ngày càng nhiều, gây sức ép về cơ sở hạ tầng và an ninh trật tự xã hội ở đô thị, đặc biệt đối với thành phố lớn như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh.
Nguyên nhân chính vẫn là do thiếu sự quản lý, chưa có chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề phù hợp và thống nhất trong cả nước. Việc phổ biến và thực thi các chính sách liên quan đến phát triển ngành, nghề nông thôn còn chưa được quan tâm đúng mức. Công tác triển khai ở địa phương còn chậm, thủ tục hành chính trong việc thực hiện quy định hỗ trợ sản xuất – kinh doanh theo các chính sách khuyến khích phát triển ngành, nghề nông thôn còn rườm rà, còn sự chồng chéo nhiệm vụ giữa các cơ quan QLNN tại địa phương.
2.Đảng và Nhà nước ta đã xác định bảo tồn và phát triển làng nghề sẽ tạo thêm lực lượng lao động mới có trình độ và tay nghề cao, chỗ làm việc mới cho lao động phi nông nghiệp, tăng thu nhập cho người dân và tăng lượng hàng hóa xuất khẩu, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Việc xây dựng Chương trình Bảo tồn và phát triển làng nghề theo phương châm “mỗi làng một sản phẩm”, phát triển ngành, nghề theo thế mạnh của từng địa phương là một chương trình lớn, toàn diện, đồng thời, có ý nghĩa kinh tế - xã hội đặc biệt quan trọng để bảo tồn và phát triển các nghề, sản phẩm, công nghệ truyền thống của dân tộc, là đòn bảy và động lực vững chắc cho công cuộc xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam. Chính vì vậy, để đạt được những mục tiêu này, chúng ta tiếp tục tăng cường công tác QLNN và chú trọng vào một số nội dung sau:
Thứ nhất,về công tác quy hoạch, cần khẩn trương xây dựng theo hướng đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, phát triển các làng nghề, cụm công nghiệp, cơ sở ngành, nghề nông thôn, hình thành các thị trấn, thị tứ mới ở nông thôn. Chú trọng bảo tồn và phát triển làng nghề, vùng nghề phải gắn với quy hoạch vùng nguyên liệu và đặc biệt là bảo vệ môi trường. Thực hiện lồng ghép các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội ở trung ương và địa phương, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân cùng tham gia vào quá trình lập và thực hiện các chương trình, dự án với mục đích người dân là người thụ hưởng kết quả từ chương trình.
Thứ hai,với chính sách đầu tư cơ sở hạ tầng, xử lý ô nhiễm làng nghề và đất đai, cần áp dụng chính sách ưu tiên ở mức cao nhất đối với các dự án bảo tồn và phát triển làng nghề khi di dời ra khỏi khu dân cư đến địa điểm quy hoạch. Trên cơ sở các dự án khảo sát, nghiên cứu và thống kê làng nghề cả nước và vùng lãnh thổ để hoạch định chính sách trên cơ sở thực tế, từ đó, áp dụng các chính sách ưu đãi cho thuê đất, giá thuê đất ở mức thấp nhất và miễn tiền thuê đất cho các cơ sở ngành nghề nông thôn; đặc biệt là nghề thủ công truyền thống của đồng bào đan tộc và các nghề thủ công mĩ nghệ truyền thống cần phải bảo tồn.
Thứ ba,trong công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, cần khuyến khích và hỗ trợ 100% chi phí lớp học cho các cơ sở ngành, nghề nông thôn, các nghệ nhân trực tiếp mở lớp truyền nghề, giáo viên dạy nghề, người thiết kế mẫu trong các làng nghề và hoạt động tư vấn phát triển sản phẩm; đặc biệt là tạo điều kiện thuận lợi cho các nghệ nhân, chuyên gia trong và nước ngoài truyền dạy nghề, kinh nghiêm, bí quyết sản xuất các nghề thủ công mĩ nghệ bằng các hình thức công nhận kết quả dạy nghề của các nghệ nhân. Đối với lao động nông thôn khi tham gia học nghề ở các cơ sở đào tạo nghề cũng được hỗ trợ kinh phí đào tạo theo chính sách hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn theo quy định hiện hành.
Đối với các dự án có hiệu quả được hưởng ưu đài đầu tư theo luật đầu tư và được vay vốn ưu đãi hỗ trợ đầu tư phát triển sản xuất; lao động nông thôn sau khi học nghề được vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm để tự tạo việc làm theo Quyết định số 1956/QĐ-TTg ngày 27-11-2009 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt “Đề án đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”.
Thứ tư, về khoa học – công nghệ và môi trường, khẩn trương tiến hành xây dựng chương trình quốc gia về khoa học – công nghệ cho phát triển ngành, nghề nông thôn; xây dựng chính sách khuyến khích các cơ quan, tổ chức và cá nhân nghiên cứu khoa học, nghiên cứu ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển làng nghề, đặc biệt là các nghề truyền thống và phát triển nghề mới. Ưu tiên đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật và công nghệ để phát triển làng nghề mới. Có chính sách khuyến khích mọi tổ chức, cá nhân nghiên cứu, đổi mới công nghệ phục vụ cho bảo tồn và phát triển ngành nghề, làng nghề, ban hành chính sách tạo điều kiện thuận lợi để các nghệ nhân trong làng nghề tham gia nghiên cứu khoa học, kể cả làm chủ các đề tài, dự án; khuyến khích đầu tư 100% cho các đề tài khôi phục kĩ thuật truyền thống; hiện đại hóa công nghệ truyền thống và mở mang nghề mới từ nhiệm vụ khoa học – công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước, cán bộ, ngành và địa phương. Bên cạnh đó, để quản lí chất lượng sản phẩm, cần xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn, quy chuẩn quản lý chất lượng sản phẩm làng nghề, đặc biệt là sản phẩm thực phẩm chế biến, hàng thủ công mĩ nghệ… có ảnh hưởng đến sức khỏe người dân và môi trường.
Thứ năm, tập trung cho đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo, nghiên cứu và thiết kế mẫu mã sản phẩm và bao bì đóng gói sản phẩm, xúc tiến thương mại, khoa học – công nghệ, xử lý ô nhiễm môi trường… Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển làng nghề, đặc biệt là các dự án phát triển làng nghề gắn với phục vụ khách du lịch và phát triển làng nghề mới. Hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở các làng nghề hoặc sản xuất – kinh doanh các sản phẩm truyền thống trực tiếp với các làng nghề. Các dự án đầu tư trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển làng nghề được hưởng hỗ trợ lãi suất vay vốn cao nhất theo quy định hiện hành và được tạo điều kiện thuận lợi vay vốn ưu đãi với lãi suất thấp. Được miễn, giảm các loại thuế có liên quan để đầu tư sản xuất - kinh doanh, thiết kế mẫu mã, cải tiến công nghệ, trang thiết bị trong lĩnh vực bảo tồn, phát triển làng nghề ở vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc và khôi phục, bảo tồn các nghề, làng nghề truyền thống. Hỗ trợ 75% kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và xử lý môi trường cho các làng nghề truyền thống và các điểm phát triển làng nghề gắn với phục vụ khách du lịch. Riêng đối với các xã thuộc khu vực khó khăn, vùng đồng bào dân tộc ít người, vùng sâu, vùng xa được hỗ trợ 100% kinh phí.
Thứ sáu, xúc tiến thương mại qua việc hỗ trợ điều tra, khảo sát, nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước đối với sản phẩm hàng thủ công mĩ nghệ. Các cơ sở ngành, nghề nông thôn được hỗ trợ 100% kinh phí thuê gian hàng, chi phí vận chuyển và các chi phí có liên quan khác khi tham gia hội trợ, triển lãm. Đẩy mạnh thương mại điện tử, hỗ trợ các cơ sở ngành, nghề nông thôn, doanh ghiệp, làng nghề xây dựng hệ thống thông tin nhằm giới thiệu, quảng bá sản phẩm làng nghề; xây dựng thương hiệu, sở hữu trí tuệ, trước mắt tăng nguồn kinh phí hỗ trợ để thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin và sử dụng internet nhằm quảng bá thương hiệu và các sản phẩm làng nghề.








