Tại sao mộ Lê Quýnh có hai bài văn bia?
Trong khi dịch, giáo sư Hoàng Xuân Hãn hơn một lần nhận thấy bài văn bia “Theo bản chép tay chắc còn mang một số sai sót” và “Phải có bản dập bia mới chắc”. Sự băn khoăn của giáo sư khiến chúng tôi tìm đến thôn Đại Mão, xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, quê hương của Lê Quýnh để xem tận mắt tấm bia mộ trên. Thật kỳ lạ, bài văn bia mộ Lê Quýnhdo giáo sư Hoàng Xuân Hãn giới thiệu với bài văn khắc trong bia mộ hiện còn dựng trước nhà thờ họ Lê không phải là một, mà là hai văn bản khác hẳn nhau. Điều đó chứng tỏ giáo sư Hoàng Xuân Hãn có thái độ nghiên cứu thận trọng và sự nghi ngờ của ông là hoàn toàn khoa học.
Tuy nhiên, một ngôi mộ mà có hai bài văn bia là hiện tượng rất hiếm hoi, thú vị. Hơn nữa hai bài văn ấy lại cùng nói đến một nhân vật đặc biệt trên chính trường Việt , giai đoạn cuối Lê - đầu Nguyễn, nên càng đáng quan tâm. Được sự đồng ý và giúp đỡ của gia tộc Lê Doãn, chúng tôi xin giới thiệu bản dịch nguyên văn bài bia mộ Lê Quýnh, kèm theo vài nhận xét, để bạn đọc rộng đường tham khảo.
Bia mộ Lê Quýnh vốn ở ngoài đồng, nay mang về đặt trước sân, đối diện với nhà thờ. Kích thước bia khá to, khổ đều 1,75m x 0,80m, đặt trên bệ gạch cao 0,50m. Đây là kiểu bia đời Nguyễn. Diềm bia có gờ nổi 0,15m xung quanh chạm hoa lá cách điệu. Trán bia hình bán nguyệt, chạm lưỡng long triều nguyệt có hai mấu tai chìa ra hai bên.
Mặt trước bia nói về Lê Quýnh. Dưới mặt nguyệt khắc bốn chữ to nằm ngang Thiên địa chính khígiữa hai chữ Thọ tròn. Toàn văn chữ Hán, gồm 518 chữ, khắc chân phương, đẹp.
Mặt sau chạm tương tự như mặt trước, có ba chữ to nằm ngang ở trán bia Vạn cổ hương, nói về Lê Doãn Trị, gồm 259 chữ. Cộng cả hai mặt là 777 chữ. Phần viết về Lê Quýnh dịch như sau:
THIÊN ĐỊA CHÍNH KHÍ
Cố Lê Trường Phái hầu mộ chí.
Ông nội tôi người họ Lê, tên là Quýnh, sinh năm Canh Ngọ (1750) đời vua Lê Cảnh Hưng, là con trai nối dõi cụ tiến sĩ (Lê Doãn Giản), đỗ khoa Quý Hợi (1743) đời vua Lê Cảnh Hưng, làm tới chức Hình bộ Thị lang, Đại Nham hầu.
Năm hai mươi mốt tuổi được bổ Nho sinh Chiêu Văn quán.
Đời vua Cảnh Hưng, năm Bính Ngọ (1786) ông nội tôi ba mươi bảy tuổi, ra làm Quản binh, vâng mệnh đi phủ dụ vùng Giang Bắc, khi trở về được phong tước Bá.
Mùa đông năm Đinh Mùi (1787), Chiêu Thống năm thứ nhất, quân Tây Sơn tàn phá thành Thăng Long, vua Chiêu Thống chạy lên Lạng Giang, ông nội tôi đem gia binh đi hộ giá được phong Trường Phái hầu. Vâng mệnh đi tìm Thái hậu cùng Nguyên tử chạy lên Cao Bằng. Bị Tây Sơn đuổi đánh nên ông tôi phải hộ tống cung quyến nhà vua sang phủ Nam Ninh thuộc đất Trung Quốc.
Nghe lệnh của vua Thanh, ông tôi qua tỉnh Quảng Đông theo đường biển về nước do thám tình hình. Khi ông tôi trở lại, vua Thanh ban cho Tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị làm chức Tổng binh, đem quân sang giúp nhà Lê. Mùa đông năm Chiêu Thống thứ hai (1788) lấy lại thành Thăng Long. Xe vua trở về, đặc ban cho ông nội tôi kiếm, ấn, làm Tổng đốc binh lương, sau được đổi giữ chức Đồng Bình Chương Sự. Liền đó ông tôi bị bệnh nên cáo quan về điều trị.
Mùa xuân năm Chiêu Thống thứ ba (1789), quân Tây Sơn tiến đánh. Sĩ Nghị thua chạy đem nhà vua theo sang đất Bắc. Bệnh đã đỡ, ông tôi liền tập hợp đồng chí, chiêu mộ nghĩa dũng, chờ đợi viện binh. Qua hạ sang thu vẫn không thấy có tin tức, bèn cùng với em con ông chú ruột là Siêu Lĩnh hầu Lê Doãn Trị và bọn bề tôi nhà Lê là Trịnh Hiến, Lý Bỉnh Đạo... lên đường sang Yên Kinh để cầu phục viện. Đến nơi nghe tin chúa cũ (vua Lê) cùng bọn bầy tôi đi theo đã cắt tóc thay đồ mặc như người Thanh. Nhà Thanh bắt buộc các ông phải cắt tóc, các ông không chịu, giữ tinh thần bất khuất suốt mười ba năm dòng. Ông nội tôi có thơ rằng:
Thân hãm trong tù ôm tiết trắng
Mệnh treo sợi tóc tỏ lòng son.
Khí tiết của các ông phát ra lời không phải chỉ một chỗ. Do đó chúa cũ lệnh cho ghi chép lại thành “Tứ công tập”. Người Thanh cũng khâm phục gọi bốn ông là “Tứ nghĩa sĩ”.
Năm Nhâm Tuất, Gia Long nguyên niên (1802), giặc Tây Sơn đã yên, bác ruột tôi là Doãn Tắc được phép theo đoàn sứ bộ của nhà Nguyễn sang phương Bắc thăm chúa cũ đồng thời dò la tin tức của cha. Năm Gia Long thứ ba (1804), vua Thanh cho đem hài cốt chúa cũ cùng bọn tòng vong về nước. Bốn ông đều giữ trọn tóc mà về.
Ông nội tôi đưa hài cốt chúa cũ cùng Thái hậu, Nguyên phi, Nguyên tử vào Thanh Hóa an táng. Xong việc, ông tôi trở về huyện nhà, hàng ngày thường đến chùa Đại Đồng du ngoạn, thưởng vịnh tùng cúc. Có thơ rằng:
Phật tổ mới thu làm đệ tử
Trời thương còn để tấm thân thừa.
Ở nhà được khoảng một năm, đến ngày 16 tháng 9 năm Ất Sửu, niên hiệu Gia Long thứ tư (1805) ông nội tôi qua đời, hưởng thọ 56 tuổi. An táng tại xứ Đường Vật, ruộng họ, thuộc địa phận bản thôn, tọa quý, hướng đinh.
Sinh hạ hiện tại ba chi. Tôi (Doãn Tố) (1) thuộc chi hai, là con trưởng của Lê Doãn Thứ.
Xin ghi lại hành trạng của ông nội. Cụ thể chi tiết đã có trong tập Bắc hành tùng ký. Tôi chỉ lược thuật khái quát để ghi vào đá này.
Dịch mặt sau, phần nói về Lê Doãn Trị:
VẠN CỔ HƯƠNG
Cố Siêu Lĩnh hầu mộ chí
Ông chú tôi tự là Doãn Trị, sinh năm Mậu Dần đời Lê Cảnh Hưng (1758), là con trai thứ năm cụ Lê Doãn Thân, Tiến sĩ khoa Mậu Thìn (1748) làm quan đến chức Đốc trấn Lạng Sơn, tước Tú Xuyên hầu. Ông Trị là đường đệ của ông nội tôi Trường Phái hầu.
Năm Chiêu Thống thứ nhất (1787) Lê Doãn Trị có quân công, được ban tước Siêu Lĩnh bá, sau phụng sự Từ giá và Nguyên tử đến Nam Ninh, được phong hầu tước.
Năm Chiêu Thống thứ ba (1789) nhà Lê mất, ông cùng ông nội tôi đi sang Trung Quốc, suốt mười sáu năm giữ trọn tóc mà về. Sau đó xin về an dưỡng, ngày ngày vui cùng bạn cũ và thân thích họ hàng. Tại nơi ở, ông viết bốn chữ lớn “Tạ thiên thanh phúc” (Cảm ơn trời cho cái phúc trong trẻo) để tỏ rõ ý kiến của mình.
Năm 53 tuổi mới sinh con trai đầu (đặt tên là Doãn Tịnh. Nay Doãn Tịnh đã có hai con trai).
Ngày mồng 8 tháng 3 năm Tân Mùi, niên hiệu Gia Long thứ mười (1811), ông qua đời tại quê nhà, hưởng thọ 54 tuổi. An táng cạnh mộ ông nội tôi về phía tây nam, cùng mạch đất phương bắc vậy.
Tố tôi kính cẩn lược thuật sự trạng của ông ghi vào bia để mọi người đều biết.
Tự Đức nguyên niên, Mậu Thân (1848), tháng 8, ngày tốt. Đỗ Cử nhân khoa Kỷ Mão, niên hiệu Gia Long (1819). Đốc học tỉnh Hải Dương, gia Hàn Lâm thị giảng Vũ Quyền hiệu chính (2).
Thửa ruộng gồm tám thước (102 mét vuông) nam giáp ruộng tổ mộ, giao cho Trưởng giám cày cấy và đóng thuế. Cuối xuân vào đầu tháng Ba hàng năm tảo mộ, tu sửa nhà thờ, làm lễ trai bàn kính cẩn, phải tuân theo mãi mãi.
(Theo bản dịch của Lê Doãn Đằng).
Trả lời câu hỏi của chúng tôi: Tại sao bài văn của Hoàng giáp Nguyễn Đăng Sở soạn vào tháng sáu năm Quý Dậu, Gia Long thứ mười hai (1813), nghĩa là sau khi Lê Quýnh mất tám năm, Lê Doãn Trị mất hai năm lại không được khắc vào bia đá? Hoặc giả đã dựng rồi mà vì lý do gì đó bị hư hỏng nên phải thay bằng bài trên đây? Các bậc lão thành dòng họ Lê ở Đại Mão cho biết:
Trọng bốn nghĩa sĩ bị nhà Thanh giam giữ vì không chịu cắt tóc, mặc áo như người Trung Quốc, thì hai vị Trịnh Hiến, Lý Bỉnh Đạo khi được về nước lại ra làm quan với nhà Nguyễn. Riêng hai anh em thúc bá Lê Quýnh và Lê Doãn Trị lui về làng. Giáo sư Hoàng Xuân Hãn cho rằng: “Hoặc là tuy được về và được làm trọn nguyện vua Lê, nhưng thấy Gia Long không phục hưng nhà Lê, Quýnh bất đắc chí” (Sách đã dẫn, tr.108).
Cái gọi là “bất đắc chí” ấy còn được Lê Quýnh gửi gắm trong bài thơ mà hai câu đầu dẫn trong văn bia. Hai câu cuối như sau:
Bạch phát cố quân kiêm cố quốc
Hoàng quan di lão tức di thần.
(Tóc bạc nhớ vua thêm nhớ nước
Khăn vàng lão mốc vốn quan xưa).
Cố quân là vua cũ. Cố quốc là nước cũ. Di thần là bầy tôi triều trước. Cứ ý tứ hai câu này thì Lê Quýnh chỉ biết có vua Lê và chỉ làm tôi nhà Lê!
Thời điểm Hoàng giáp Nguyễn Đăng Sở viết văn bia (Quý Dậu 1813) là thời điểm nhân dân nhiều nơi còn tưởng nhớ nhà Lê. Có kẻ lợi dụng danh Lê Duy Hoán (con Lê Duy Chi, cháu Lê Chiêu Thống), để mưu đồ chống Gia Long. Tình hình chính trị đương thời đang khá gay gắt mà Nguyễn Đăng Sở lại có những câu cực lực đề cao hai anh em họ Lê: “ Tráng thay! Suốt khoảng mười bảy năm, thủy chung không đổi. Có bốn bày tôi nhà Lê trung nghĩa mà anh em hầu chiếm hai ngôi. Thật là người xưa gọi là hiếm thấy vậy. Ôi! Đọc sách Thánh hiền hành đạo Thánh hiền, như Hầu đáng gọi là người như vậy...” “Ôi! hai Hầu dòng dõi nhà xưa, di thần nước lớn. Trong tiến thoái, trung hiếu thì không quản. Tính kiên trì là như thế. Ý chừng, đã có Trường Phái hầu làm anh, thì biết chí của Siêu Lĩnh hầu. Đã có Siêu Lĩnh hầu làm em, càng làm tỏ lòng trung của Trường Phái hầu. Hai anh em một cửa, trung nghĩa gồm no, đủ làm sáng sử xưa, rệt đời sau, rạng rạng rực rực. Trông các quân tử trước thật không thẹn” (Hoàng Xuân Hãn dịch, Sđd, tr.124).Có phải Nguyễn Đăng Sở đã cố ý kéo dài thời gian thủy chung bất khuất của Lê Quýnh, từ 16 năm lên 17 năm, bao gồm cả những năm Lê Quýnh sống dưới chế độ nhà Nguyễn? Chỉ biết chắc chắn rằng những năm dưới triều Gia Long - Minh Mệnh là những năm tình hình chính trị trong nước chưa ổn định. Sau vụ Lê Duy Hoán lại đến vụ Lê Duy Lương. “Vua truyền bắt dòng dõi nhà Lê đem đày vào Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, cứ chia cho 15 người ở một huyện” (Trần Trọng Kim: Việt Nam sử lược.Trung tâm học liệu xuất bản 1971, tập 2, tr.204).
Tình hình ấy cộng với những biến cố trong gia đình (bố con Lê Quýnh bị kẻ cướp đâm tử thương, nhiều người bệnh chết, có người (ông cha Lê Doãn Nhớn) vì lý do chính trị phải bỏ làng trốn lên ở huyện Phú Bình, Thái Nguyên v.v...) nên bài văn nồng nhiệt của Nguyễn Đăng Sở không được khắc vào bia đá là điều dễ hiểu.
Phải đợi đến 35 năm sau, tức năm Mậu Thân (1848) khi Tự Đức vừa lên ngôi, cháu nội Lê Quýnh là Lê Doãn Tố mới thực hiện được công việc dựng bia ghi công trạng cho ông mình. Bài văn của Lê Doãn Tố được Đốc học Vũ Quyền hiệu chính, lấy lại nhiều câu của Nguyễn Đăng Sở, nhìn chung có giọng điệu trần thuật bình tĩnh, dễ chấp nhận. Đặc biệt bài này còn giới thiệu khá đầy đủ về tiểu sử Siêu Lĩnh hầu Lê Doãn Trị mà những tài liệu trước đó - kể cả bài của Nguyễn Đăng Sở - cũng chưa làm được.
Cũng không loại trừ khả năng những viên quan bộ Lễ, được vua Tự Đức giao cho sưu tầm thơ văn của Lê Quýnh, đã không đi thực tế. Họ tìm thấy bài của Nguyễn Đăng Sở và đưa ngay vào tập Lê triều tiết nghĩa lụcmà không biết rằng bài được khắc là bài của Lê Doãn Tố. Đó là nguyên nhân nữa gây ra hiện tượng một ngôi mộ có hai bài văn bia chúng ta đang xem xét.
1. Lê Doãn Tố, cháu nội Lê Quýnh, con trưởng Lê Doãn Thứ, sinh năm Mậu Ngọ (1798) ở làng Đại Mão, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đỗ tú tài khoa Mậu Tý Minh Mệnh 9 (1828) và khoa Giáp Ngọ Minh Mệnh 15 (1834). Làm thông phán tỉnh Hải Dương. Mất năm Đinh Tỵ (1857) thọ 60 tuổi. (theo Gia phả họ Lê ở Đại Mão).
2. Vũ Quyền: cháu nội Tiến sĩ Thượng thư Vũ Miên, em ruột Liên Trì ngư giả Vũ Trinh, quê làng Ngọc Quan, nay thuộc xã Lâm Thao, huyện Lương Tài, tỉnh Bắc Ninh. Đỗ cử nhân khoa Kỷ Mão, Gia Lomg (1819) làm Đốc học Hải Dương, gia Hàn Lâm thị giảng. Sau lấy cớ phụng dưỡng mẹ già, xin nghỉ về dạy học. Học trò nhiều người thành đạt. (Theo Bắc Ninh dư địa chí).
Nguồn: Tạp chí Xưa & Nay, số 267, tháng 9 năm 2006.