Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 06/06/2012 20:50 (GMT+7)

Tài nguyên biển và chính sách hợp tác về biển của Việt Nam

Đặt vấn đề

Thế kỷ XIX được các nhà chiến lược trong và ngoài nước xem là “Thế kỷ của đại dương”, bởi cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số hiện nay, nguồn tài nguyên thiên nhiên, nhất là tài nguyên không tái tạo được trên đất liền sẽ bị cạn kiệt sau vài ba thập kỷ tới. Trong bối cảnh đó, các quốc gia có biển, đặc biệt là các nước lớn đều vươn ra biển, xây dựng chiến lược biển, thực hiện đa dạng hóa các quan hệ hợp tác quốc tế về biển, đồng thời tăng cường tiềm lực mọi mặt để khai thác và khống chế biển.

Tiềm năng tài nguyên biển Việt Nam rất đáng kể và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước cũng như trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Biển Đông trong đó có vùng biển Việt Nam chứa đựng nhiều nguồn tài nguyên quan trọng, như dầu mỏ và khí đốt. Với một vùng biển rộng trải dài qua 16 vĩ tuyến, biển Việt Nam được đánh giá là một trong những vùng biển có mức độ đa dạng sinh học cao.

Những lợi thế cơ bản về vị trí, tiềm năng biển trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay đòi hỏi Việt Nam phải thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa hợp tác quốc tế về biển để tranh thủ ngoại lực, phát huy tốt nội lực góp phần thúc đẩy kinh tế biển Việt Nam phát triển nhanh và bền vững.

1. Tiềm năng biển Việt Nam là nhân tố cơ bản để thực hiện chính sách hợp tác quốc tế về biển trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.

Việt Nam là một trong những quốc gia có bờ biển dài ở khu vực Đông Nam Á, với chiều dài trên 3.260 km, trải dài trên 13 vĩ độ, có tỷ lệ chiều dài đường biển trên diện tích đất liền cao nhất Đông Nam Á và đứng thứ 27 trên 157 quốc gia có biển trên thế giới (trung bình của thế giới là 600 km 2đất liền/1 km bờ biển, Việt Nam là 100 km 2đất liền/1 km bờ biển). Vùng biển Việt Nam rộng trên một triệu km 2gấp 3 lần diện tích đất liền và có khoảng 4.000 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, đồng thời ven bờ biển Việt Nam có hơn 3.000 hòn đảo chủ yếu nằm ở vịnh Bắc Bộ; đảo nổi của Việt Nam có diện tích khoảng 1.700 km 2, trong đó có 3 đảo có diện tích lớn hơn 100 km 2(Phú Quốc, Cái Bầu, Cát Bà).

Theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 thì nước Việt Nam ngày nay không chỉ có phần lục địa “hình chữ S” mà còn có cả vùng biển rộng lớn. Biển, đảo là một bộ phận cấu thành phạm vi chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, cùng với đất liền tạo ra môi trường sinh tồn và phát triển đời đời của dân tộc Việt Nam.

Đến nay, kết quả thăm dò, khảo sát và nghiên cứu về biển cho thấy, tiềm năng tài nguyên biển Việt Nam rất đáng kể và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước đặc biệt phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.

Khu vực ven bờ biển Việt Nam có nhiều đảo có giá trị kinh tế cao về tiềm năng phát triển du lịch, khu sinh thái... Dọc bờ biển có một số trung tâm đô thị lớn, có trên một trăm địa điểm có thể xây dựng hệ thống cảng biển ngang tầm cỡ khu vực và thế giới để cho tàu có trọng tải lớn ra vào, xuất nhập khẩu hàng hóa và quá cảnh, trung chuyển quốc tế.

Ven bờ biển Việt Nam có nhiều bãi biển lớn và nhỏ, cảnh quan đẹp, trong đó, có những bãi biển đủ tiêu chuẩn quốc tế để phát triển các loại hình du lịch biển. Ngoài ra, chạy dọc ven bờ biển Việt Nam có rất nhiều khoáng sản quan trọng để phục vụ cho công nghiệp như than, sắt, titan, cát thủy tinh, các loại vật liệu xây dựng khác và có khoảng 5 - 6 vạn héc - ta ruộng muối biển.

Nguồn tài nguyên biển có giá trị và trữ lượng tương đối lớn của vùng biển Việt Nam là dầu thô và khí đốt nằm ven thềm lục địa. Trong các vùng biển và thềm lục địa của nước ta đã xác định được nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó có các bể Cửu Long và Nam Côn Sơn được đánh giá là có triển vọng dầu khí và điều kiện khai thác thuận lợi nhất, với tổng trữ lượng ước tính khoảng 10 tỉ tấn dầu quy đổi. Cùng với dầu - khí, trong các bể trầm tích ở thềm lục địa nước ta có trữ lượng than rất đáng kể. (Bảng 1)

Bảng 1. Dự báo trữ lượng tiềm năng than trên thềm lục địa Việt Nam

Bể trầm tích

Trữ lượng

Mét khối (x10 9m 3)

Tấn (x10 9tấn)

Bể Sông Hồng

543,2

977,8

Bể Sông Cửu Long

81,5

146,7

Bể Nam Côn Sơn

1126

2027,8

Bể Malaysia - Thổ Chu

656,7

1182,1

Tổng

2407,4

4334,4

                                    Nguồn: Từ Tổng công ty Dầu - Khí Việt Nam năm 2009

Dầu khí là một ngành công nghiệp mũi nhọn của Việt Nam, đồng thời cũng là ngành khai thác biển quan trọng. Tổng trữ lượng dự báo địa chất về dầu khí toàn thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ lượng khai thác khoảng 1.000 tỷ mét khối (Báo cáo của Tổng Công ty Dầu khí tháng 3 năm 1996). Trên thềm lục địa Việt Nam, tính đến năm 2009 có trên 60 hợp đồng thăm dò và khai thác dầu khí với nhiều hình thức hợp tác.

Vùng biển Việt Nam có hơn 2.000 loài cá, trong đó có gần 130 loài có giá trị kinh tế cao và hàng trăm loài được đưa vào sách đỏ Việt Nam và thế giới, 1.600 loài giáp xác, 2.500 loài thân mềm, khai thác 45.000 - 50.000 tấn rong biển.

Cùng với đất liền, vùng biển Việt Nam nằm ở nơi tiếp giáp giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, một khu vực giàu tài nguyên thiên nhiên, một thị trường có sức mua khá lớn, một vùng kinh tế nhiều thập kỷ phát triển năng động. Thềm lục địa Việt Nam có nhiều bể trầm tích chứa dầu khí và có nhiều triển vọng khai thác nguồn khoáng sản này. Khi ngành công nghiệp khai thác dầu khí phát triển kéo theo sự phát triển của một số ngành khác như công nghiệp hóa dầu, giao thông vận tải, thương mại trong nước và khu vực.

Ngoài dầu mỏ, vùng biển Việt Nam còn có nhiều mỏ sa khoáng và cát thủy tinh có trữ lượng khai thác công nghiệp và làm vật liệu xây dựng... Tiềm năng về khi - điện - đạm và năng lượng biển cũng rất lớn như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, thủy triều, sóng và cát thủy nhiệt.

Biển Việt Nam nằm ở vị trí có nhiều tuyến đường biển quan trọng của khu vực cũng như của thế giới, nối thông với nhiều cảng biển của Đông Nam Á và Đông Bắc Á.

Hệ thống cảng của Việt Nam gồm cảng biển và cảng sông với khoảng 144 cảng lớn nhỏ. Ven biển miền Trung có nhiều vũng, vịnh nước rất sâu, có điều kiện thuận lợi để phát triển cảng biển, trong đó có các cảng trung chuyển container tầm cỡ khu vực và quốc tế; đồng thời cũng rất thuận lợi để xây dựng các cơ sở đóng tàu quy mô lớn, cũng như xây dựng đội thương thuyền đủ mạnh để buôn bán trên thế giới. Sự hình thành mạng lưới cảng biển cùng với các tuyến đường bộ, đường sắt ven biển vươn tới các vùng sâu trong nội địa, đến các tuyến đường xuyên á cho phép vùng biển và ven biển Việt Nam có khả năng chuyển tải hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu qua mọi miền của Tổ quốc và ra nước ngoài, đến Trung Quốc, Lào (quốc gia quá cảnh), Thái Lan và Cambodia, góp phần thúc đẩy cực tăng trưởng mới về kinh tế trong khuôn khổ Khu vực mậu dịch tự do giữa các nước ASEAN và Trung Quốc.

Dọc theo bờ biển Việt Nam, trung bình khoảng 20 km lại có một cửa sông. Phần lớn các sông ngòi đều chảy theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và đổ ra biển. Các hệ thống sông vùng duyên hải Quảng Ninh, sông Hồng, sông Mã, sông Cả, sông Đồng Nai - Vàm Cỏ, sông Cửu Long... có nhiều cửa thông ra biển thuận tiện cho giao thông đường thủy từ đất liền ra biển và ngược lại. Các cửa sông với lượng phù du lớn và rất phong phú đổ ra biển đã tạo thuận lợi cho việc phát triển nguồn lợi thủy sản.

Nguồn lợi thủy hải sản của biển Việt Nam được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực. (Bảng 2)

Bảng 2. Trữ lượng và khả năng khai thác cá ở biển Việt Nam

STT

Vùng biển

Loại cá

Trữ lượng

Khả năng khai thác

Tỷ lệ (%)

Tấn

%

Tấn

%

1

Vịnh Bắc Bộ

(Phía tây)

Cá nổi

390.000

83,2

156.000

83,0

16,9

Cá đáy

48.409

16,8

31.364

17,0

2

Trung Bộ

Cá nổi

500.000

89,0

200.000

89,0

23,3

Cá đáy

61.646

11,0

24,658

11,0

3

Đông Nam Bộ

Cá nổi

524.000

42,9

209.600

42,9

44,1

Cá đáy

698,307

51,7

279,323

57,1

4

Tây Nam Bộ

Cá nổi

316.000

62,0

126.000

62,0

18,3

Cá đáy

190,679

38,0

76.272

38,0

5

Gò nổi

Cá nổi

10.000

100,0

2.500

100

0,4

6

Tổng cộng

Cá nổi

1.740.000

63,0

697.100

62,8

100,0

Diện tích tiềm năng nuôi trồng thủy sản của Việt Nam vào khoảng 2 triệu héc - ta, bao gồm ba loại hình mặt nước đó là nước ngọt, nước lợ và vùng nước mặn ven bờ, có thể nuôi trồng các loại đặc sản như tôm, cua, rong câu, nuôi cá lồng...

Việt Nam có nhiều trung tâm du lịch biển quan trọng có vị trí địa lý thuận lợi, nằm trên tuyến du lịch quốc tế Đông Nam Á như Vũng Tàu, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hải Phòng, Quảng Ninh... có đủ các điều kiện và khả năng để trở thành những tụ điểm về du lịch biển.

Vùng biển Việt Nam là địa bàn quan trọng để phát triển kinh tế đất nước. Hiện nay có trên 30% dân số cả nước sinh sống ở 28 tỉnh, thành phố ven biển. Đa số các thành phố, thị xã đều nằm ở ven sông, cách biển không xa, nhất là các thành phố, thị xã ở Trung Bộ nằm sát ven biển, có đường quốc lộ 1A chạy qua. Khu vực ven biển cũng là nơi tập trung các trung tâm công nghiệp lớn, có nhiều sân bay, cảng biển quan trọng, các căn cứ hải quân, kho tàng, các công trình kinh tế - quốc phòng khác. Các tỉnh, thành phố ven viển có các cảng, cơ sở sửa chữa, đóng tàu, đánh bắt hoặc chế biến hải sản, làm muối... thu hút hàng chục triệu lao động, giải quyết công ăn việc làm, góp phần to lớn vào việc ổn định tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh - quốc phòng của đất nước.

Vị trí, tiềm năng biển Việt Nam là những nhân tố cơ bản để Việt Nam thực hiện đường lối đối ngoại, hợp tác quốc tế về biển một cách linh hoạt nhằm phát huy những lợi thế của vùng biển Việt Nam góp phần phát triển kinh tế của đất nước.

2. Chính sách hợp tác quốc tế về biển của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Hợp tác quốc tế về biển hiện nay, phải đặt trong tổng thể Chiến lược, Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Chiến lược biển, phù hợp với đường lối và chính sách đối ngoại của Việt Nam. Bởi vậy, hợp tác quốc tế về biển nhằm xây dựng vùng biển hòa hảo, hợp tác, hữu nghị cùng phát triển trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi và tôn trọng pháp luật Việt Nam và các chuẩn mực chung của luật pháp quốc tế.

Đối với Việt Nam, hợp tác quốc tế về biển để chủ động hội nhập, đưa vị thế của Việt Nam ngang tầm khu vực và quốc tế, thực hiện quyền và nghĩa vụ của Việt Nam trong việc tham gia các tổ chức quốc tế và điều ước quốc tế.

Mục tiêu nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, xuyên suốt của công tác đối ngoại về vùng biển và ven biển là xác lập chủ quyền đầy đủ, quản lý và bảo vệ vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của Việt Nam trên các vùng biển và thềm lục địa, các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các hải đảo khác thuộc chủ quyền của Việt Nam. Hợp tác quốc tế về biển cũng nhằm thu hút các nguồn lực từ bên ngoài (các tổ chức tài chính - kinh tế quốc tế, nhà nước, doanh nghiệp, các cá nhân nước ngoài...) để phát huy tốt hơn tiềm năng thế mạnh của biển Việt Nam, nâng cao thu nhập, đời sống cho ngư dân ven biển, thúc đẩy hình thành một số tập đoàn kinh tế lớn. Xây dựng một số công trình kết cấu hạ tầng biển và ven biển trọng điểm (cảng biển, đường cao tốc ven biển, các khu kinh tế ven biển và đảo). Hình thành một số cơ sở dự báo thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn, phát triển tiềm lực khoa học - công nghệ biển, xây dựng các cơ sở đào tạo nhân lực để phát triển các lĩnh vực liên quan đến biển.

Nhiệm vụ cụ thể hợp tác quốc tế đối với ngành, lĩnh vực tiêu biểu là hợp tác trong lĩnh vực dầu khí. Quan điểm chủ đạo trong phát triển ngành dầu khí là bảo đảm an ninh năng lượng kết hợp với bảo vệ an ninh quốc gia, tăng cường khả năng phòng thủ trên biển. Phát triển đi đôi với bảo vệ tài nguyên môi trường sinh thái, tiết kiệm năng lượng cho sự phát triển bền vững của đất nước.

Mục tiêu chiến lược của phát triển dầu khí là trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật quan trọng, thúc đẩy việc tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến, dự trữ, phân phối, dịch vụ và xuất nhập khẩu.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong tìm kiếm thăm dò ở các vùng nước sâu xa bờ thuộc vùng biển đặc quyền kinh tế của Việt Nam, các vùng nhạy cảm về chủ quyền như vùng thuộc bể Phú Khánh, Tư Chính, thuộc nhóm bể Trường Sa, Vịnh Bắc Bộ nhằm sớm xác định trữ lượng dầu khí ở các khu vực này, đồng thời thắt chặt mối quan hệ hợp tác tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí với các nước liên quan trong các khu vực chồng lấn thềm lục địa khi được Chính phủ cho phép. Hợp tác trong lĩnh vực kinh tế hàng hải: Kinh tế vận tải biển, ngành vận tải biển cần tập trung đầu tư phát triển nhanh, hiệu quả đội tàu biển Việt Nam theo hướng trẻ hóa, hiện đại hóa và chuyên dụng hóa, đặc biệt là tàu container và tàu dầu để đến năm 2020 phấn đấu tổng trọng tải đạt 6 - 7 triệu DWT, năm 2015 trên 10 triệu DWT và đến năm 2020 trên 14 triệu DWT nhằm nâng cao sức cạnh tranh với các công ty vận tải biển của các nước trong khu vực và trên thế giới.

Tham gia có hiệu quả thị trường vận tải biển trong khu vực và trên thế giới theo hướng tăng mạnh sản lượng vận tải quốc tế, tăng thị phần nhằm đảm bảo hợp lý lợi ích kinh tế vận tải ngoại thương để đến năm 2015 đạt trên 25% và 2020 đạt trên 35% tổng sản lượng vận chuyển hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam.

Hình thành các trung tâm du lịch ven biển lớn tầm cỡ quốc gia và quốc tế ở các khu vực có nhiều điều kiện thuận lợi trên cơ sở phát triển đa dạng các tuyến du lịch và các loại hình du lịch - thể thao - giải trí cả ở trên bờ, trên biển và trên các hải đảo. Gấp rút xây dựng cơ sở vật chất cho du lịch biển, đầu tư phát triển đồng bộ và hiện đại các cơ sở hạ tầng du lịch, nhất là những khu vực sẽ phát triển đô thị trong tương lai. Đảng và Nhà nước cần có các chính sách mở cửa mạnh mẽ, tăng cường liên doanh liên kết nhằm thu hút vốn đầu tư trong nước và ngoài nước để nâng cấp, xây dựng thêm khách sạn ở các khu vực trọng điểm du lịch và các thành phố lớn ven biển. Phát triển hệ thống các điểm vui chơi giải trí ven biển và trên một số đảo. Đầu tư thích đáng cho việc tôn tạo, nâng cấp và quy hoạch lại các điểm di tích lịch sử, di tích cách mạng, các di sản văn hóa... đảm bảo tiêu chuẩn của các điểm du lịch tầm cỡ quốc tế.

Hợp tác trong lĩnh vực hải sản: Tăng cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản. Nghiên cứu tham gia các Hiệp định nghề cá khu vực và thế giới.

Trong nuôi trồng và chế biến hải sản cần tập trung nghiên cứu và đưa nhanh các tiến bộ kỹ thuật của thế giới và khu vực vào Việt Nam trong các lĩnh vực về sản xuất giống hải sản, công nghệ nuôi, dinh dưỡng động vật hải sản và xử lý môi trường nuôi, công nghệ tiên tiến về nuôi cá lồng biển khơi, công nghệ nuôi bè, giàn treo, dây leo đối với các loài nhuyễn thể và rong biển. Ứng dụng công nghệ vệ tinh và hệ thống thông tin địa lý (GIS) trong việc ra quyết định quản lý hoạt động nuôi trồng thủy hải sản ven biển Việt Nam. Ưu tiên hợp tác nghiên cứu nuôi trồng dược liệu biển phục vụ chế biến dược liệu, ưu tiên khuyến khích hợp tác quốc tế trong lĩnh vực chế biến sản phẩm thủy hải sản đem lại giá trị gia tăng cao.

Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất muối biển thì cần hình thành các khu vực sản xuất muối tập trung có công nghệ hiện đại để kết hợp khai thác muối biển chất lượng cao với việc thu hồi đồng thời các hóa phẩm khác trong nước biển, nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế của ngành khai thác muối biển của Việt Nam.

Thu hút đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực xây dựng một số khu công nghiệp hóa học biển bao gồm các xí nghiệp sản xuất xút, axít clohidric và các hóa chất cơ bản khác từ nguồn nguyên liệu muối biển có sản lượng lớn và chất lượng cao ở ven biển các tỉnh Đà Nẵng đến Sóc Trăng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp lớn trong tương lai.

3. Bảo vệ chủ quyền và hợp tác quốc tế về biển - vai trò chiến lược biển Việt Nam

Hiện nay, Biển Đông là nơi đang tồn tại những mâu thuẫn kinh tế, chính trị của thế giới - một trong các “điểm nóng” của thế giới, tập trung những mặt đối lập, thuận lợi và khó khăn, hợp tác và đấu tranh, hòa bình và nguy cơ mất ổn định, dễ gây ra xung đột vũ trang. Một trong những vấn đề đó là tồn tại tranh chấp biển, đảo giữa các nước và vùng lãnh thổ xung quanh Biển Đông, tạo nên tranh chấp đa phương và song phương, chứa đựng các mâu thuẫn cả về quốc phòng, kinh tế và đối ngoại. Có lúc tranh chấp này trở nên quyết liệt, là một trong những yếu tố gây nên sự bất ổn định khó lường.

Sự thay đổi chiến lược của các nước trên thế giới, nhất là các nước lớn và sự thay đổi căn bản cục diện ở Đông Nam Á, những tranh chấp trên biển và động thái mới nói trên cho Việt Nam trước tình thế phải khẩn trương đổi mới mạnh mẽ tư duy chiến lược trên nhiều bình diện khác nhau, trong đó có chiến lược quốc phòng - an ninh trên biển và chiến lược phát triển kinh tế biển...

Vươn ra biển, khai thác và bảo vệ biển là sự lựa chọn có tính chất sống còn của dân tộc Việt Nam. Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương Đảng (Khóa X) đã ra Nghị quyết về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” nhằm nhanh chóng đưa Việt Nam trở thành một nước mạnh về biển, trong đó đề ra các mục tiêu và những giải pháp chiến lược xuất phát từ yêu cầu và điều kiện khách quan của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam thời kỳ hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới.

Hiện nay, Việt Nam có quan hệ thương mại song phương với trên 100 nước, quan hệ đầu tư với trên 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, tham gia nhiều tổ chức quốc tế. Trong thời gian tới, các hoạt động hợp tác song phương, đa phương diễn ra sẽ rộng lớn trong nhiều lĩnh vực cả về kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Trong đó, hoạt động trên biển sẽ diễn ra với quy mô và cường độ lớn hơn, thuận lợi xen lẫn thách thức. Chủ trương của Đảng và Nhà nước là tích cực hợp tác và đấu tranh để thực hiện các cam kết quốc tế về biển, đồng thời, kiên quyết, kiên trì bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo gắn với phát triển kinh tế biển, tạo môi trường thuận lợi để nước ta mở rộng quan hệ trao đổi khoa học kỹ thuật, đầu tư, đổi mới công nghệ, hiện đại hóa trang bị cho quốc phòng - an ninh. Tăng cường hiểu biết lẫn nhau với các quốc gia thành viên trong khu vực và quốc tế... với mục đích cao nhất là ổn định để phát triển đất nước, sử dụng biển tương xứng với tầm vóc của nó trong cơ cấu kinh tế cũng như sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Qua đó có thể khẳng định rằng, với vị trí, tiềm năng biển Việt Nam rất đa dạng và phong phú, đây là những lợi thế cơ bản để Việt Nam thực hiện chính sách hợp tác quốc tế về biển nhằm phát huy khai thác các thế mạnh đó với mục tiêu tổng quát, đó là đến năm 2020 Việt Nam trở thành một trong những quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia trên biển, đảo, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho đất nước giàu mạnh.

Xây dựng và phát triển toàn diện các lĩnh vực kinh tế, xã hội, khoa học - công nghệ, tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh, làm cho đất nước giàu mạnh từ biển, đảo, bảo vệ môi trường biển. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và ven biển đóng góp khoảng 53 - 55% tổng GDP của cả nước. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, cải thiện một bước đáng kể đời sống nhân dân vùng biển và ven biển. Phấn đấu thu nhập bình quân đầu người cao gấp hai lần so với thu nhập bình quân chung của cả nước. Xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. Phát triển mạnh cả khai thác, chế biến sản phẩm từ biển và phát triển các ngành dịch vụ biển. Xây dựng một số khu vực kinh tế mạnh ở ven biển, xây dựng cơ quan quản lý nhà nước tổng hợp thống nhất về biển có hiệu lực, hiệu quả, mở rộng hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực về biển.

Để chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đi vào cuộc sống, các cấp các ngành và chính quyền các địa phương ven biển có liên quan đến khai thác và bảo vệ biển cần có các chiến lược phát triển kinh tế biển của riêng mình trong chiến lược tổng thể của quốc gia. Trong đó cần có những giải pháp và bước đi phù hợp với điều kiện của đất nước và tranh thủ được vốn và kỹ thuật trong hợp tác quốc tế để vươn ra làm chủ biển khơi, phục vụ phát triển kinh tế biển nói riêng và kinh tế đất nước nói chung, bảo đảm sự phát triển nhanh, bền vững và ổn định lâu dài./.


Xem Thêm

Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

VUSTA làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh (BAST)
Ngày 7/8, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Tp. Đà Nẵng, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) đã có buổi làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Bắc Kinh (BAST). Đây là hoạt dộng trong khuôn khổ Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24 của AFEO do VUSTA tổ chức đăng cai.
Vinh danh 20 kỹ sư tiêu biểu tại Hội nghị AFEO năm 2025
Ngày 6/8, tại Đà Nẵng, trong khuôn khổ chương trình Hội nghị AFEO Midterm 2025 do Liên đoàn các Tổ chức Kỹ sư ASEAN (AFEO) phối hợp Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức, 20 kỹ sư đến từ các đơn vị của Việt Nam đã được vinh danh tại Lễ trao chứng chỉ Kỹ sư chuyên nghiệp ASEAN (ACPE) năm 2025.
(Video) Khai mạc Hội nghị AFEO Midterm 2025 tại Đà Nẵng
Ngày 6/8, tại TP Đà Nẵng, Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN (AFEO) chính thức khai mạc phiên toàn thể Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24. Hội nghị là diễn đàn để các nhà khoa học, các kỹ sư, các chuyên gia cùng chia sẻ, thảo luận các giải pháp trong việc kiến tạo một tương lai bền vững cho khu vực ASEAN.
Ba mục tiêu khi xây dựng thành phố thông minh tại ASEAN
Nằm trong khuôn khổ chuỗi hội thảo thuộc Hội nghị AFEO Midterm 2025 tại Đà Nẵng do Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN (AFEO) và Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tổ chức, Hội thảo Thành phố thông minh - Hướng tới nâng cao chất lượng cuộc sống đã xác định được 3 mục tiêu khi xây dựng thành phố thông minh tại ASEAN.
Khai mạc phiên toàn thể của Hội nghị AFEO Midterm 2025 tại Đà Nẵng
Ngày 6/8, tại TP Đà Nẵng, Liên đoàn các tổ chức kỹ sư ASEAN (AFEO) chính thức khai mạc phiên toàn thể Hội nghị giữa kỳ lần thứ 24. Hội nghị là diễn đàn để các nhà khoa học, các kỹ sư, các chuyên gia cùng chia sẻ, thảo luận các giải pháp trong việc kiến tạo một tương lai bền vững cho khu vực ASEAN.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Đảng bộ Liên hiệp Hội Việt Nam nhiệm kỳ 2025-2030
Ngày 31/7, Đảng bộ Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ lần thứ nhất. Đồng chí Phạm Ngọc Linh, Phó Bí thư Thường trực Đảng ủy, Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam chủ trì Hội nghị.
Sửa Luật Đất đai 2024: Đề xuất 2 phương án về bảng giá đất, bỏ "nguyên tắc thị trường"
Tại Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đất đai 2024, Bộ Nông nghiệp và Môi trường đề xuất bỏ nguyên tắc thị trường trong xác định giá đất, thay vào đó Nhà nước đóng vai trò chủ thể xác định; đồng thời đề xuất 2 phương án khi xây dựng bảng giá đất...