Tài ngoại giao của Bác Hồ
1.Bác Hồvới Thủ tướng Ấn Độ Neru
"Trước đó tôi được cử sang Ấn Độ học tiếng Hindhi, chuẩn bị cho chuyến thăm này của Bác Hồ và vinh dự được làm phiên dịch cho Bác trong thời gian Người ở thăm Ấn Độ.
Ấn tượng sâu sắc và vinh dự to lớn đối với tôi là lần đầu tiên được đọc bài diễn văn của Bác đã dịch sẵn sang tiếng Hindhi.
Trong cuộc mít tinh có hàng vạn người dự tại Red Fort (Thành Đỏ) ở thủ đô Delhi, các bạn Ấn Độ làm sẵn một cái ghế cho Bác Hồ ngồi trên bục danh dự. Chiếc ghế trông như một cái ngai vàng, rất lớn. Trong khi đó, Thủ tướng Ấn Độ ngày ấy là J. Neru thì chỉ ngồi một chiếc ghế bình thường như mọi người khác.
Khi Thủ tướng Neru mời Bác Hồ ngồi vào chiếc ghế đó, Bác dứt khoát từ chối. Thấy vậy, Thủ tướng Neru nói: Ngài là khách danh dự của chúng tôi, việc Ngài ngồi lên chiếc ghế này chính là niềm vinh dự của chúng tôi mà...
Chứng kiến điều này, hàng vạn người dự mít tinh phía dưới quảng trường đứng cả lên xem. Hai vị lãnh tụ của hai nước cứ nhường nhau, cuối cùng chẳng ai ngồi lên chiếc ghế lớn ấy.
Thủ tướng Neru đành gọi người cho chuyển chiếc ghế đi, thay bằng một chiếc ghế khác giản dị hơn. Thấy vậy, hàng vạn người dân Ấn Độ dưới quảng trường rất cảm kích vỗ tay vang dội và hô rất to: “Hồ Chí Minh muôn năm! Hồ Chí Minh muôn năm!”.
Chuyện này được người Ấn Độ sau đó kể lại rất nhiều, trở thành một huyền thoại của họ về Bác Hồ.
Trong chuyến thăm này, trong một bữa tiệc do Thủ tướng Neru chiêu đãi Bác Hồ có món thịt gà địa phương rất nổi tiếng. Người Ấn Độ khi ăn cơm không dùng thìa, dĩa mà dùng 5 ngón tay để bốc thức ăn. Cả Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ cũng muốn dùng tay bốc thức ăn.
Nhưng tại bữa tiệc quốc tế người ta phải dùng dao, thìa, dĩa cho lịch sự. Khi món thịt gà được đưa ra, các quan khách Ấn Độ có vẻ không quen dùng dao, dĩa. Bác Hồ rất tinh ý, Người nói với Thủ tướng Neru: Thịt gà phải ăn bằng tay thì mới ngon, chứ còn ăn bằng thìa dĩa thì khác nào nói chuyện với người yêu lại phải qua ông phiên dịch. Nghe Bác Hồ nói vậy, cả bàn tiệc cười ầm cả lên làm cho không khí bữa tiệc hôm đó rất vui vẻ và thân mật."
2. Những bài học của Bác
Nhân tham gia hiệu đính bản dịch tiếng Anh cuốn sách “Tư tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh” và hơn 40 năm ở Bộ Ngoại giao (1954-1995), tôi nhớ lại những kỷ niệm và bài học Bác dạy về công tác đối ngoại.
Mùa Đông năm 1954, một số anh chị em Bộ Ngoại giao được sang Phủ Chủ tịch xem phim. Mọi người đã yên vị, Bác và Thủ tướng Phạm Văn Đồng lặng lẽ đi vào.
Bác lên tiếng trước: “Hôm nay, các cô chú sẽ nghe Thủ tướng nói chuyện, sau đó sẽ cùng xem phim. Nhưng Bác phê bình, ở đây có cả các cô chú bên Ngoại giao, thế mà thấy Thủ tướng và Bác vào không ai đứng dậy”. Chúng tôi bật đứng lên nhận lỗi và nhớ mãi bài học đầu tiên này.
Bác cũng kịp thời uốn nắn tác phong đối ngoại của cán bộ. Khi qua Bắc Kinh trong thời gian Trung Quốc có khó khăn về kinh tế nhưng bữa ăn vẫn rất nhiều món, một cán bộ Việt Nam đi theo thích thú gắp ăn thử tất cả các món. Bác nhắc nhở: Chú thích nhất món nào thì ăn món đó, để lại các món khác, tiết kiệm cho bạn.
Bác căn dặn cán bộ Đại sứ quán phải quan hệ tốt với bạn bè. Mỗi lần đến Sứ quán, Bác đều gọi 2 người con gái của đồng chí Nguyễn Khánh Toàn (với bà vợ Trung Quốc) ra gặp và thăm hỏi. Sự ưu ái của Bác làm ấm lại tình cảm gia đình và quan hệ hai nước.
Bác có biệt tài tiếp khách và gây ấn tượng sâu sắc với khách quốc tế, đồng thời cũng rất cảnh giác. Một lần tiếp đoàn thể thao nước ngoài, khi giới thiệu tới Phó Đoàn, Bác nói ngay: Tôi biết ông này. Phó Đoàn (sĩ quan tình báo) sau đó thú nhận, khi Bác sang thăm nước ông ta, ông đóng vai sĩ quan cận vệ, không ngờ sang Việt Nam mặc thường phục Bác vẫn nhận ra.
Ông Nguyễn Dy Niên trong Đoàn đàm phán Paris |
Sau khi đi đến hầu hết các châu lục và sào huyệt của chủ nghĩa thực dân để tìm hiểu tình hình, Người đã giương cao ngọn cờ đoàn kết các dân tộc thuộc địa, tranh thủ sự ủng hộ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, đòi quyền lợi tại Hội Quốc Liên (sau Thế chiến 1), tại Hiến chương Đại Tây Dương và sau này là Liên Hợp Quốc (sau Thế chiến 2), cộng tác chặt chẽ với đồng minh chống Nhật.
Người đã chủ động giúp đỡ và cộng tác với các sĩ quan tình báo của Mỹ, bố trí 2 sĩ quan Mỹ cùng ở sát bên mình trong an toàn khu để theo dõi tình hình thế giới và liên lạc với đồng minh. Việc đó đã chinh phục tình cảm của Trung úy Patti và cộng sự cho mãi đến sau này.
Bác luôn trân trọng tình hữu nghị với các nước anh em và bạn bè. Mặc dù có những thay đổi trong đường lối và tập hợp lực lượng trên thế giới, nhưng mối thiện cảm với Bác và dân tộc Việt Nam vẫn được duy trì và phát triển.
Bà Đại sứ Thụy điển Marie Sjolander, trước khi hết nhiệm kỳ về nước mời tôi ăn trưa và thích thú tổng kết: Khi từ Ấn Độ sang, bà hình dung Việt Nam có nhiều khó khăn, nhưng thật bất ngờ, tuy Thụy Điển là nước có quan hệ quốc tế rất tốt, nhưng trong ngoại giao đoàn Hà Nội người ta thường nói với nhau: Vietnam is every one’s darling (Việt Nam là người yêu của tất cả mọi người). Thật là kỳ diệu, vừa ra khỏi tình trạng bao vây cấm vận và mới tuyên bố sẵn sàng là bạn mà đã nhanh chóng là “darling” của mọi nước.
Nguồn: Tiền Phong Chủ nhật, 28/8/2005