Tác hại của sơn móng tay
Các chế phẩm làm móng tay thường được sử dụng gồm:
- Chất tẩy móng tay là hợp chất để tẩy các vết mực, vết ố vàng do nhựa thuốc lá và những vết bẩn khác dính vào móng tay. Hợp chất này thường chứa một tác nhân oxy hoá và những chất có chứa chlor. Công thức tiêu biểu chứa: titanium dioxid 20%, talc 20%, zinc peroxid 7,5%, petrolatum 26%, dầu khoáng 26,5% và chất mùi. Độc tính tuỳ theo thành phần.
- Chất làm cứng móng tay để giữ cho móng tay không bị gãy hay xước, phần lớn trước đây chứa formaldehyd nay là các polyester, acrylic và polyamid…
- Chất làm trắng móng tay thường có 2 loại: loại kem chứa titanium dioxid, sáp ong, cồn cetyl, petrolatum, bơ ca cao, cồn benzoin và nước. Loại chất lỏng chứa titanium dioxid, glyceryl monostearat, sáp ong, dầu hạnh nhân, petrolatum và nước…
- Chất tẩy rửa lớp sơn cũ thường gồm một dung dịch đủ mạnh để làm tan và lấy đi các màu sơn cũ, nên chứa với nhiều tỷ lệ khác nhau, các chất aceton, toluen, cồn ethyl, amyl acetat, butyl acetat, benzen, và ethyl acetat. Ngoài ra, còn có dầu Thầu dầu, lanolin, cồn cetyl, dầu Ô liu, hương liệu spermaceti, các dầu tổng hợp (ethyl oleat, butyl stearat…). Nhiều hoá chất trên dây rất độc hại đối với hệ thần kinh trung ương nhất là toluen, benzen và các acetat aliphatic.
- Nước sơn móng tay là một loại sơn màu, trong công thức thường có: cellulose nitrat (nitrocellulose), butyl acetat, ethyl acetat, toluen , dibutylphtalat, các alkyl ester (amyl, acetat…), phẩm màu, các chuyển hoá chất glycol, các chất gôm, các hydrocarbon (vòng và dây thẳng), các keton (aceton, methyl, ethyl), dầu bóng và acid phosphoric. Các chất này thường gây phản ứng phụ như ngứa, mẩn đỏ quanh khoé mắt và ở cổ, ở vùng quanh móng tay, làm cho móng tay bạc màu, có đốm đen thường xuyên, xước, giòn… gây ói mửa.
- Sơn bóng giữ màu sơn có thể trong suốt, không màu hay màu hồng rất nhạt, thường chứa celluloid, amyl acetat và aceton… để bảo vệ sơn không bị tróc và làm màu sơn sáng, bóng hơn.
Trong những chế phẩm kể trên đây, ba loại đầu tương đối ít độc, các loại sau dễ bay hơi và có tác dụng nguy hiểm hơn. Ngoài ra còn phải kể những chất nhựa plastic dùng làm móng tay giả dán lên gắn vào những móng tay sẵn có, tạo ra cảm giác… móng tay dài hơn, đẹp hơn… Chất này dùng để lấy móng giả thường chứa acetonitril hay methyl cyanid… có thể tạo dị ứng, khó chịu ngoài da… và đặc biệt không để người lớn hay trẻ em uống nhầm, gây tai biến.
Đa số các hoá chất dùng trong nghề móng tay đều đã được Cơ quan Quản lý Thực - Dược phẩm Mỹ (FDA) cho phép sử dụng. Tuy nhiên, do thiếu kiểm soát chặt chẽ, nên đã xảy ra nhiều tác hại.
Điều đáng quan tâm là những người làm nghề làm móng phải thường xuyên tiếp xúc với các chất độc nói trên, nguy hiểm nhất có aceton, benzen và toluen.
* Aceton là dung môi quan trọng nhất trong những nước rửa móng tay. Chất này tuy tẩy rửa được các lớp sơn cũ nhưng lại gây cho móng tay bị xơ, dòn... Khi dính vào da gây ngứa nơi đầu ngón tay…
- Nguy hại nhất là hít vào nhiều aceton gây hại đến phổi, tạo cảm giác say… mất thăng bằng theo kiểu như nghiện rượu.
* Benzen là một dung môi rất tốt, có mặt trong các chất tẩy sơn móng tay và là một trong những dung môi hữu cơ gây ra những độc hại đáng ngại cho nghề làm móng. Benzen được hấp thu rất nhanh khi hít hơi… Sau chừng 4 giờ tiếp xúc với không khí có chứa 50ppm benzen… cơ thể hấp thu khoảng 50% lượng hít vào. Benzen sau đó phân bố tại gan và tuỷ sống… đồng thời tích tụ trong các tế bào mỡ.
Tuỷ xương là cơ quan gánh chịu tác dụng độc hại của benzen. Tuỷ xương có các phân hoá tố MFO để chuyển đổi benzen… và các chất chuyển đổi này gây ra những tác động độc hại đối với máu. Chúng có thể gắn vào các đại phân tử của tế bào như protein, DNA và RNA gây trở ngại cho sự tăng trưởng và tái tạo tế bào.
Benzen gây độc:
- Ở hệ thần kinh trung ương; gây choáng váng, mệt mỏi, mất sáng suốt.
- Về máu huyết: cả hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu đều bị ảnh hưởng. Về lâu dài và hít liên tục benzen, gây thiếu máu, giảm bạch cầu. Ung thư bạch cầu cũng có thể xảy ra… từ 5 đến 15 năm sau khi bị nhiễm độc.
- Ung thư hạch kiểu non – Hodgkin lymphoma.
* Toluen dần dần được dùng để thay thế benzen, cũng là mối nguy hại đáng kể nhất cho nghề làm móng. Hít hơi toluen lâu ngày và liên tục có thể sinh nghiện.
Toluen hít vào cơ thể sẽ đạt nồng độ cao nhất sau 15 đến 30 phút. Lượng toluen được hấp thu tuỳ nhịp thở hít vào ở tình trạng bình thường, phổi hấp thu khoảng 50% lượng toluen hít vào.
Toluen có áp lực cao với chất béo, rất ít tan trong nước và được phân bố khá nhanh vào các mô tế bào não, gan và thận. Toluen cũng có ái lực đặc biệt với mô thần kinh nên gây ra tác động ngộ độc về thần kinh rất nhanh, đặc biệt là đối với phụ nữ có thai.
Nguồn: Thuốc và Sức khoẻ, số 300-301, 15/1-1/2/2006







