Suy nghĩ về lịch sử
Vì thế, cách đây đúng 11 năm, để kỷ niệm ngày hoà bình và thống nhất đất nước, tôi có viết một bài mang tựa đề Lịch sử và cuộc sốngđăng trên tuần san Công giáo và Dân tộc. Trong đó tôi có viết: “Lịch sử không chỉ là những biến cố. Cũng như con đường không chỉ là những cột mốc của các km được chôn rải rác ở một bên đường, hay những cột mốc đánh dấu biên giới giữa các tỉnh thành hay các quốc gia. Con đường thì dài và liên tục, cũng như biên giới không chỉ ở chỗ có cột mốc. Lịch sử cũng tựa như những đợt sóng dâng cao trên mặt nước biển hay sông hồ, mà nếu không có cả một khối nước vẫn âm thầm chuyển động dưới đáy sâu, thì dù gió bão đến đâu cũng chẳng có lấy một gợn sóng lăn tăn. Những biến cố lịch sử chỉ là cái phần nổi bật, những nét hoạ vẽ trên một cái nền, mà nếu không có sẽ chẳng ai thấy được gì. Đằng khác, lịch sử thường hay thiên vị, nó chọn lựa những biến cố, chọn lựa những nhân vật và vô tình hay cố ý đẩy lùi vào bóng tối những biến cố và những nhân vật mà nó cho là không quan trọng. Điều đó cũng tương tự như nhà hoạ sĩ hay nhạc sĩ chỉ chọn một số màu, một số nốt nhạc chứ không chọn tất cả” (Sđd, tr 25). Lịch sử không chỉ có các vua Hùng hay Ngô Quyền, Lê Lợi, Trần Hưng Đạo… mà trước hết là cả dân tộc ta, xã hội ta, những người dân lao động, trí thức, đã góp công góp sức, góp đầu óc suy tư, góp bàn tay lao động để xây dựng và bảo vệ non sông đất nước này. Lịch sử hào hùng của Điện Biên, không chỉ có Đại tướng anh hùng Võ Nguyên Giáp, mà còn các chiến sĩ, các bà mẹ anh hùng, và cả những người nông dân không tên tuổi đã sinh ra, nuôi dưỡng những người lính vô danh, mà chúng ta ít khi tưởng nhớ tới… Mồ hôi, nước mắt và cả máu của họ làm nên màu đỏ mà các anh hùng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các vị chỉ huy, lãnh đạo, đã sử dụng để viết nên trang sử oai hùng đời đời không quên: Chiến thăng Điện Biên.
Vì suy nghĩ như vậy, nên tôi không đồng tình với cách trình bày lịch sử của nước ta hiện nay, trong các sách viết, hay trong các bảo tàng lịch sử. Một thí dụ điển hình: cách đây vài năm, khi trở lại thăm Viện Bác cổ Hà Nội, tôi lấy làm ngạc nhiên, khi nhìn vào khu trưng bày về Nhà Nguyễn, tôi không thấy vua Gia Long đâu cả, cũng như Minh Mạng, Tự Đức, nhưng lại thấy có Duy Tân và Hàm Nghi, tôi nhớ thế. Nhưng điều chắc chắn là không có vua Gia Long. Tôi tự hỏi, vậy thì lịch sử nước ta trong suốt thời gian này là một tờ giấy trắng hay sao? Hơn thế nữa, không có Gia Long thì làm sao có Duy Tân và Hàm Nghi. Không chỉ có thể: không có Gia Long, thì làm sao chúng ta có được miền Nam này và thành phố Hồ Chí Minh, nơi chúng ta đang họp bàn về chuyện phục hồi địa vị và danh dự cho Tả quân Lê Văn Duyệt và Phan Thanh Giản?
Vấn đề phục hồi danh dự và vị trí lịch sử cho Phan Thanh Giản hay cho Lê Văn Duyệt cũng nằm trong cái toàn bộ lịch sử mà chúng ta đang bàn tới hôm nay.
Theo tôi nhận định, thì hình như hiện nay chúng ta có thói quen chính trị hoá mọi sự: từ giáo dục cho đến văn hoá và cách riêng lịch sử. Chúng ta có một cái nhìn khá thiên vị, thiếu khách quan. Chúng ta chỉ đề cao, ca tụng người này, mà chửi bới, thoá mạ, lên án người khác, thậm chí coi họ như chưa bao giờ hiện hữu ở đời này. Vì thế mà bản đồ lịch sử của chúng ta nhiều chỗ bị bỏ trống, thậm chí còn bị bôi đen, làm mất đi sự trong sáng rõ ràng của nó.
Nhưng chính trị là chính trị, lịch sử là lịch sử; cũng như lịch sử khách quan là một chuyện, còn đánh giá lịch sử ấy như thế nào là chuyện khác. Chúng ta có quyền yêu hay ghét, ca tụng hay chửi bới, lên án một nhân vật lịch sử này, để chỉ tôn thờ, ca tụng những nhân vật chúng ta yêu thích và lựa chọn, nhưng không có quyền chối bỏ hiện hữu lịch sử của những người kia, vì làm như vậy là phủ nhận luôn cả lịch sử nói chung. Bởi vì lịch sử, cũng như chính hiện hữu là một biện chứng: không có người thì chẳng có ta, không có cái này, thì chẳng có cái kia; không có biến cố trước, thì chẳng có biến cố sau. Còn chuyện những biến cố đó hay dở, tốt xấu, cơ lợi hay có hại, là một chuyện khác.
Vì thế có lần phát biểu trước một hội nghị đặc biệt, quy tụ các chức sắc lớn của Đảng và Chính quyền, bao gồm các cụu Tổng Bí thư, các nguyên uỷ viên Bộ Chính trị, và các nguyên Bộ trưởng, cũng như các vị lãnh đạo Đảng và Chính quyền đương nhiệm, tổ chức tại Hà nội, ngày 3 – 7, sau Đại hội Đảng khoá X. Trong bài phát biểu, tôi có nhắc lại những suy nghĩ biện chứng của tôi khi đứng ở bờ giếng gần ngôi nhà quê nội của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Tôi tự hỏi, nếu không có Tây thì liệu có Bác Hồ không nhỉ? Và nếu không có Mỹ và Ngô Đình Diệm, thì liệu có ngày 30 – 4 – 1975 hay không?
Tôi có thể kết luận rằng: lịch sử là toàn thể, toàn bộ những diễn biến của cuộc đời và của tất cả những con người tốt có, xấu có, và cho dù muốn hay không muốn, vô tình hay cố ý, đã tạo ra những chuyển động đổi thay mà chúng ta gọi là những biến cố làm nên lịch sử. Lịch sử ấy đã đi qua, và hôm nay chúng ta là những người kế thừa, những kẻ nối bước những người đi trước. Vấn đề quan trọng và có ý nghĩa đối với chúng ta hôm nay, không phải là đánh giá một cách chủ quan, để lên án, loại trừ người này, người nọ, hay phủ nhận trang sử này trang sử khác, mà là học được bài học của quá khứ, để tránh khỏi những sai lầm trong hiện tại, để tương lai được hoàn toàn tươi sáng.
Tổ tiên chúng ta dạy rằng phải “ôn cố tri ân”. Phải nhắc lại quá khứ để học biết cái hiện tại, cái mới mẻ đang có trước mắt và ở trong tầm tay, để cùng ý thức trách nhiệm lịch sử của mình trong việc xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, giàu lòng tương thân tương ái và đoàn kết. Biết quảng đại tha thứ cho nhau, để hoà hợp trong tinh thần “tương hoà để sinh hoá” theo những hình vẽ trên mặt trống đồng, mà GS. Dương Thiệu Tống đã giải mã và giải thích cho chúng ta.