Suy ngẫm về nền kinh tế tri thức Việt Nam
Những con số...
Tháng 9/2012, chỉ trong 3 ngày đầu ra mắt, 5 triệu chiếc IPhone 5 của hãng Apple đã được bán với giá 1.100 USD/chiếc, mang lại 5,5 tỷ USD doanh thu, tương đương khoảng 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của nước ta trong tháng này (kim ngạch xuất khẩu tháng 9 đạt 9,7 tỷ USD).
Câu chuyện không chỉ làm nhiều người trăn trở mà còn “hâm nóng” nhiều diễn đàn khoa học, công nghệ Việt Nam.
ÔngVõ Tuấn Nhân: “Để phát triển kinh tế tri thức, trước hết cần tập trung làm tốt công tác quy hoạch, kế hoạch từ khâu sản xuất, chế biến đến tiêu thụ (cả tiêu thụ nội địa và xuất khẩu). Song song đó là việc định hướng nền sản xuất đi vào chiều sâu, đặc biệt là đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, ứng dụng khoa học-công nghệ tiên tiến, công nghệ cao và thân thiện môi trường; chủ động xây dựng nền kinh tế xanh, nâng cao chất lượng sản phẩm để nâng cao giá trị và khả năng cạnh tranh”. |
Từ những diễn đàn này, đã có người liên hệ đến thực tế, nước ta hiện có đội ngũ trí thức đông đảo với khoảng 2,6 triệu người có trình độ từ đại học trở lên, chưa kể những trí thức ở nước ngoài. Nhưng chúng ta vẫn đứng ở nửa dưới của bảng xếp hạng nền kinh tế tri thức (Knowledge Economy Index – KEI) toàn cầu (Việt Nam là 3,51; Mỹ 9,02; Singapore: 8,44; Malaysia: 6,07...).
Mang câu chuyện này trao đổi với Phó Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học – Công nghệ - Môi trường Quốc hội Võ Tuấn Nhân - tôi nhận được lời giải thích: “Sự phát triển nói chung liên quan đến mức độ cạnh tranh về công nghệ. Cạnh tranh công nghệ lại phụ thuộc vào giáo dục và nghiên cứu khoa học. Như vậy, trong nền kinh tế tri thức, giáo dục và nghiên cứu khoa học là nhân tố chính”. Nhận thức rõ vấn đề này, những năm qua, nhà nước đã rất quan tâm đến phát triển giáo dục và khoa học-công nghệ với nhiều chủ trương, chính sách và cơ chế khuyến khích, hỗ trợ và thực tế, chúng ta đã đạt được tiến bộ đáng kể.
Tuy nhiên, giáo dục nước ta còn nhiều hạn chế, nhất là vấn đề chất lượng đào tạo. Bên cạnh đó, cơ chế thu hút nhân tài thật sự chưa đi vào thực tế; điều kiện làm việc của đội ngũ trí thức còn nhiều khó khăn. Ngoài ra, sự lãng phí chất xám, “chảy máu chất xám” vẫn còn là điều rất đáng quan tâm dù cơ chế quản lý trong đào tạo và nghiên cứu khoa học đã được hoàn thiện theo hướng tích cực hơn.
Tăng lượng, chất “dậm chân tại chỗ”?
Phải khẳng định rằng, mọi sự so sánh chỉ là tương đối, nhưng rõ ràng, dù đã ý thức được rằng, “tri thức là sức mạnh” nhưng chúng ta chưa thực sự biến “lợi thế” của tri thức thành giá trị kinh tế trong sản xuất, kinh doanh, nhất là trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu (XK).
Mấy năm trở lại đây, Việt Nam đã trở thành “đối thủ nặng ký” của Ấn Độ, Braxin, Thái Lan... trên một số thị trường XK, nhưng giá thành, khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam vẫn còn thua kém, dù đã rất nỗ lực khai thác thế mạnh so sánh để phát triển kinh tế và cạnh tranh với các quốc gia khác trên thế giới.
Dễ thấy nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp, chúng ta đi từ chỗ thiếu lương thực đến vị trí quốc gia XK nhất, nhì thế giới. Nhưng vẫn phải thừa nhận là chúng ta mới chỉ chú trọng phát triển theo chiều rộng mà chưa đi vào chiều sâu, thể hiện qua việc nhiều sản phẩm XK ở dạng nguyên liệu thô, hàm lượng khoa học, công nghệ kết tinh trong sản phẩm còn thấp.
Nói về nguyên nhân của tình trạng này, ông Võ Tuấn Nhân cho rằng, căn nguyên từ công tác quy hoạch, kế hoạch và quản lý từ sản xuất đến tiêu thụ còn nhiều bất cập. Thể hiện rõ nhất là tình trạng được mùa - mất giá và ngược lại. Ngoài ra, quá nhiều lĩnh vực sản xuất (ngoài nông nghiệp) của Việt Nam còn mang yếu tố gia công nên hàm lượng giá trị gia tăng thấp. Cùng với đó, hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, tuy có nhiều thành tựu, nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu dẫn đến công nghệ sản xuất lạc hậu, tiêu tốn nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường. Thêm vào đó, việc tổ chức XNK còn có yếu tố tự phát, chưa tạo được sức mạnh tổng hợp trong cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế.
Quyết liệt cho một nền kinh tế tri thức
Mới đây, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đã có báo cáo khẳng định, lợi thế từ sở hữu các nguồn lực tài nguyên thô và giá nhân công rẻ, hàm lượng công nghệ thấp của chúng ta đang ngày càng khó bền vững. Thay vào đó, hàm lượng công nghệ cao, kỹ năng lao động, cơ sở hạ tầng và năng lực quản lý mới là những yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh quốc gia.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về phát triển khoa học và công nghệ đã khẳng định: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phát triển kinh tế tri thức và bảo vệ môi trường”. Trong đó nhấn mạnh, phát triển khoa học và công nghệ thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững. Như vậy có thể thấy Đảng, Quốc hội đã rất coi trọng việc tạo ra động lực cho việc hình thành và phát triển kinh tế tri thức.
Hiện nay, Quốc hội cũng đang sửa đổi Luật Khoa học và Công nghệ theo hướng: Thể chế hóa những quan điểm, chính sách của Đảng về phát triển khoa học và công nghệ; sửa đổi, bổ sung nội dung để gỡ những “nút thắt”, tạo ra sự thống nhất, đồng bộ của pháp luật về khoa học và công nghệ; triển khai thực hiện các nhiệm vụ then chốt mang tính đột phá trong hoạt động khoa học-công nghệ...
Cùng với đó, Chiến lược Phát triển khoa học-công nghệ quốc gia cũng đã được Chính phủ phê duyệt với những giải pháp và chương trình hành động rất cụ thể.
Hy vọng rằng, đường lối kinh tế đổi mới, phát triển kinh tế tri thức trên cơ sở khoa học và công nghệ là nền tảng, là động lực của sự phát triển sẽ nhận được hưởng ứng tích cực của cả xã hội, tạo ra những bước phát triển mới, nâng cao vị thế của Việt Nam trong nền kinh tế tri thức toàn cầu trong thời gian tới.








