Sự xác định quyền lực chân chính của nhà Lý thế kỷ XI (Phần II)
Chùa Kiến Sơ ở làng Phù Đổng, cách Thăng Long vài dặm ở bên kia sông Hồng, là nơi năm 820 “phái” Vô Ngôn Thông đã lập ra. Theo BCT, chùa này về sau đổ nát, dân địa phương hỏi phù thuỷ về các vấn đề linh tinh, và do quá trớn nên tự do lỏng lẻo trong thủ tục nghi lễ khi cúng tế. Có thể đây là thời kỳ lộn xộn sau khi nhà Đường sụp đổ, nhất là trong thời kỳ Hoa Lư, khi quyền lực chính trị yếu kém, chia rẽ, và căn cứ đặt ở nơi xa xôi.
Theo BCT, thời kỳ suy thoái này tiếp tục cho đến khi nhà sư Đa Bảo, một học trò của Khuông Việt và trưởng lão “phái” Vô Ngôn Thông, trong khi “giúp” Lý Công Uẩn lúc “rồng của Công Uẩn còn chưa lên”thấy tình hình Phù Đổng như vậy nên “muốn chấm dứt tình trạng này”.Theo BCT, một phần quan trọng của phong trào này nhằm khôi phục lại đời sống chùa chiền đã bị phù thuỷ làm sa đoạ trở nên “tự do quá trớn”.
Việc Đa Bảo sửa dựng chùa Kiến Sơ gắn với thổ thần địa phương; miếu thờ thần này ở bên phải cửa vào chùa. Chùa thường xây dựng bên cạnh miếu thờ thổ thần, vì các vị thần này thường được coi là thần linh bảo vệ Phật giáo. Theo truyền thuyết, Đa Bảo “kích thích năng lượng của mình” dưới một cây lớn, trước miếu thờ thần. Đó là dùng phép thuật khổ hạnh để gọi thần linh đến. Đa Bảo khấn:
Phật pháp thuỳ năng hộ,
Trữ thính trụ kỳ viên
Nhược phi ngô, chủng tử,
Tào tuỳ biệt xứ thiên.
Bất tái kim cương bộ,
Mật tích nơi la diên.
Mãn không trần số chúng,
Thị phật thành oan khiên.
(Phép Phật ai độ trì? Đợi nghe ở chỗ đất Phật. Nếu không phải giống nòi ta, nên sớm dời đi chỗ khác. Không được đem bộ Kim Cương đi. Vết bí mật không nên để lan ra. Những kẻ trần tục như số bụi bậm lầy trong không gian, mà thờ Phật chỉ thành tội lỗi).
Đa Bảo mời thổ thần vào chùa và trở thành người bảo vệ Phật giáo.
Sau khi khấn những dòng trên và “tham khảo các dấu hiệu” trong nhiều đêm liên tục, Đa Bảo nghe tiếng trả lời từ không trung:
Phật pháp từ bi đại
Uy quang phú đại thiên
Vạn thần câu hướng hoá
Tam giới tận hồi toàn
Ngô sư hành hiện lệnh
Tà quỉ thực cảm tiên
Nguyện thường tuỳ thụ giới
Trưởng ấn hộ kỳ viên.
(Phép Phật rất từ bi, uy linh trùm cả cõi đời. Muôn vị thần đều chuộng theo, ba cõi đều lan khắp. Nay sư ta thi hành hiệu lệnh, tà quỷ nào dám phạm? Xin thường theo sư để thụ giới, lớn với nhỏ đều hộ trị đất nhà Phật).
Thần linh thừa nhận sự lãnh đạo của “các bậc tiền bối” như Đa Bảo. Đa Bảo đáp trả lại lời tích cực của thần linh bằng cách lập bàn thờ và cúng tế. Việc cải cách này quan trọng trong khi đánh giá quan hệ giữa Lý Công Uẩn và giới tăng lữ. Công Uẩn đã hai lần ban bố quy tắcvà điều lệ cho những gia nhập tăng lữ. Mục đích chắc chắn là nhằm nâng cao tiêu chuẩn tinh thần đạo đức và trí tuệ của tăng lữ, và để chỉnh đốn tình trạng Đa Bảo đã thấy ở Phù Đổng.
Cái nhìn của BCT, như mô tả ở trên, khẳng định Lý Công Uẩn là điển hình của ông vua Phật giáo lý tưởng, cải cách và bảo vệ tăng lữ thông qua việc tranh thủ sự giúp đỡ của thần linh siêu nhiên ở trên lãnh thổ Việt Nam. Hai truyện còn lại do Lý Tế Xuyên trích từ BCT xem chừng áp dụng sự khẳng định này cho Phật Mã và Nhật Tôn, con và cháu của Lý Công Uẩn. Khi Công Uẩn cử Phật Mã đi đánh Champa, năm 1020, thần núi Đồng Cổ, Thanh Hoá đến gặp Phật Mã lúc ông này trên đường vào Nam. Thần cho biết sẽ giúp Phật Mã đánh quân Chăm. Khi chiến dịch của Phật Mã thành công lớn, ông cho là nhờ sự giúp đỡ của thần và cho xây miếu ở Thăng Long để thần về ở đó. Khi Công Uẩn chết, thần hiện lên gặp Phật Mã báo cho biết có anh em làm phản. Phật Mã có thời gian đưa thêm quân về thủ đô. Khi Phật Mã làm lễ tuyên thệ trung thành năm 1028, lễ được cử trong miếu thờ thần này.
Tầm quan trọng của thần Đồng Cổ là ở chỗ bảo vệ sự kế tục ngôi vua và bảo vệ lòng trung thành với dòng họ Lý. Thực tế thần đã kéo dài công đức của Công Uẩn ra ngoài quản đời của Công Uẩn, bằng cách giữ cho ngôi vua được liên tục. Giống như thổ thần ở Phù Đổng, thần núi Đồng Cổ có thể coi là thần bảo vệ Phật giáo, vì thần nuôi dưỡng quyền lực trong trật tự, chỉ trong quyền lực có trật tự đó phật giáo mới có thể tồn tại và phồn vinh.
Vị thần còn lại mà Lý Tế Xuyên nhắc đến trong BCT tồn tại dưới triều Nhật Tôn. Theo truyện này, năm 1069, bão lớn đã kìm chân Nhật Tôn trong chiến dịch đánh Champa tại một điểm trên bờ biển miền Nam . Một người đàn bà hiện lên gặp Nhật Tôn trong chiêm bao và nói: “Tôi là “tinh” cõi đất nước Nam, thác sinh vào cây ở chốn mây nước đã lâu, chờ thời đợi dịp, nay được gặp bệ hạ thật là thoả nguyện bình sinh. Bệ hạ đi chuyến này, xin cố cho chóng được toàn thắn, tôi tuy là thân bồ liễu, cũng xin giúp sức. Đến ngày khải hoàn tôi xin đợi ở đây”.
Nhật Tôn hỏi ý kiến quần thần về giấc chiêm bao; Huệ Lâm đề nghị đi tìm trong các rừng lân cận cái cây nơi nữ thần trú ngụ. Nhật Tôn ra lệnh đi tìm, chẳng bao lâu tìm thấy một cây có hình dáng người phụ nữ mà Nhật Tôn đã nhìn thấy trong chiêm bao. Cái cây được dựng lên trong thuyền của Nhật Tôn, cơn bão tan và cuộc hành quân tiếp tục. Khi về, Nhật Tôn cho dựng miếu nơi đã tìm thấy cái cây. Một cơn bão đột nhiên ập đến, Nhật Tôn không tiếp tục đường về được. Huệ Lâm khuyên Nhật Tôn nói rõ ý định đưa thần về Thăng Long. Khi Nhật Tôn nói như vậy thì bão tan. Về sau, Nhật Tôn dựng miếu cho thần ở Thăng Long đặt tên là Hậu Thổ phu nhân.
Hậu Thổ phu nhân là tên một nữ thần nổi tiếng ở nhiều vùng Trung Quốc đời Đường. Có thể việc thờ cúng Hậu Thổ phu nhân đã được các quan chức đời Đường du nhập vào Việt Nam. Đến thời Nhật Tôn, sự thờ cúng này bị giảm thiểu, chỉ còn ứng dụng cho một thần như thần Nhật Tôn đã gặp. Việc một số nhà sư có liên quan đến việc lập ra sự thờ cúng này là có ý nghĩa. Không có gì đáng ngạc nhiên nếu tên một nữ thần đời Đường được Nhật Tôn dùng cho thổ thần Việt Nam . Điều này cho thấy Phật giáo Việt Nam hồi thế kỷ XI hoàn toàn chấp nhận thế giới thần linh bản xứ, và đặt “Phật pháp” dưới sự bảo vệ của các thần linh này. Các vua Lý đã hợp tác với các thần linh mạnh của đất nước mình để khôi phục tôn giáo.
Điều này có hàm ý là đạo Phật tồn tại trong khuôn khổ rộng lớn hơn của sự thờ cúng thần linh bản xứ. Mở đầu triều đại mình, Công Uẩn đã ra lệnh sửa chữa lại mọi chùa chiền và quán Đạo giáo bị đổ nát. Dưới triều Phật Mã tên gọi “đạo sĩ” chỉ một người có tài xử lý với thế giới thần linh địa phương. Từ cuối thế kỷ XI, sau thời BCT, xét sử cải cách chùa chiền năm 1088, khi của cải của chùa được đặt dưới sự giám sát của triều đình, Phật giáo giảm bớt sự lệ thuộc vào thế giới thần linh bản xứ; quyền lực kinh tế chính trị của các chùa được thiết lập vững chắc. Nhưng sau nhiều thập kỷ của thế kỷ XI, các nhà sư hành động chống lại cái mà họ cho là sa đoạ về tinh thần, thế giới thần linh bản xứ mở ra khá rộng.
Có thể thấy thế kỷ XI là thời kỳ đạo Phật “phá thủng” được cái mộc che chở của thế giới thần linh; lần đầu tiên trong lịch sử xã hội Việt Nam nói chung vượt qua cái viễn cảnh thần linh của việc thời thần bản xứ. BCT cho thấy đạo Phật kéo mình lên nắm lấy các nấc thang vững chắc của thế giới thần linh và các vua Lý đóng vai trò trung tâm trong quá trình này.
Tôi xin điểm ngắn gọn về ba vị thần linh nữa trong VĐULT, cả ba đều có liên quan đến Lý Phật Mã. Lý Hoảng sử gọi là Lý Nhật Quang, là con thứ tám của Phật Mã. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, ông được giao xây dựng công trình phòng vệ Nghệ An, trong khi Phật Mã tấn công Champa năm 1044. Khi từ Champa trở về, Phật Mã dừng lại ở Nghệ An để xem công lao của con trai. Hài lòng với việc con trai đã làm, Phật Mã đề bạt Lý Hoảng lên chức “vương” và giao cho trông coi Nghệ An. 5.000 người Chăm có chức quyền bị bắt băm 1044 định cư ở Nghệ An, dưới sự giám sát của Lý Hoảng. Theo VĐULT, Lý Hoảng phục vụ một cách xuất sắc trong 16 năm, coi giữ biên thuỳ và bình định các bộ lạc miền núi láng giềng. Tuy nhiên năm 1056, anh của Lý Hoảng là Nhật Tôn lên ngôi vua, sau khi Phật Mã chết năm 1054, Nhật Tôn ghen tị với tiếng tăm của em, gọi Lý Hoảng về Thăng Long. Sau khi Lý Hoảng chết, có ghi chép là dân Nghệ An lập việc thờ cúng để tôn vinh.
Mị Ê là vợ của vua Chăm bị tử trận trong cuộc chiến năm 1044. Theo Đại Việt sử lý toàn thư, bà bị bắt đưa về Việt Nam . Bà nhảy từ thuyền của Phật Mã xuống sông tự tử để khỏi bị làm nhục. Theo VĐULT, những đêm lặng trời người ta nghe tiếng thở dài và nức nở từ lòng sông vọng lên. Họ bèn lập đền thờ cúng vị thần linh đã đi xa. Sau này, khi Phật Mã đi qua đền nghe chuyện về ngôi đền nói: “Nếu quả có anh linh nên báo mộng cho trẫm biết”. Đêm đó, trong chiêm bao, một người đàn bà hiện ra, nói: “Tôi là Mị Ê, vợ của vua Chăm”.Khi tỉnh dậy, Phật Mã lập đàn cúng lễ và truy tặng chức tước thần linh cho Mị Ê. Nhân dân địa phương thờ cúng bà và nhiều việc thần ký được dân chúng coi là nhờ quyền lực của bà. Việc lập thờ cúng bà có lẽ một phần vì muốn làm dịu bớt cái chết hãi hùng của bà.
Việc thờ cúng Lý Hoảng và Mị Ê bắt đầu trong lúc Phật Mã đạt được thành tựu to lớn nhất, lúc ông tiến đánh Champa. Lý Hoảng là một hoàng thân coi giữ biên thuỳ. Mị Ê là vợ một kẻ thù đã bị đánh bại. Cả hai người đều thành đối tượng thờ cúng của dân chúng. Lý Hoảng được dân chúng Nghệ An thờ, Mị Ê được ngư phủ bên sông nơi bà tự vẫn thờ. Tình cảm gán cho Phật Mã là các vị thần linh chân chính đã “biểu lộ cho Phật Mã biết”, hàm ý rằng đạo đức của vua Phật Mã đã khích động được các thần linh tự bộc lộ mình. Một hàm ý nữa là không phải mọi thần linh được quần chúng thừa nhận đều được “bộc lộ” cho Phật Mã “biết”, điều ấy nói lên thiên hướng của vua trong việc nhận thức thế giới thần linh.
Một thần linh nữa trong VĐULT liên quan đến Phật Mã là thần linh Long Đỗ “rốn rồng”. “Rốn rồng” chỉ trung tâm địa lý, chính trị và tinh thần của vương quốc ở Thăng Long. Theo VĐULT thần linh Long Đỗ xuất hiện với Cao Biền, tướng nhà Đường đã lập lại trật tự ở Việt Nam, sau sự tàn phá của quân Nam Chiếu trong những năm 860, khi ông xây dựng lại thành Đại La, tiền thân của Thăng Long và Hà Nội ngày nay. Cao Biền cố công vô ích chế ngự ma quái, cuối cùng phải vội trở về Trung Quốc, theo truyền thuyết là để tránh sức mạnh của thần linh. Dân chúng xây đền thờ vị thần linh gần cửa phía Đông của Thăng Long. Vào thời Phật Mã, vùng này trở thành một thị trấn tập tụ các nhà buôn nước ngoài. Một đêm dông bão san bằng mọi nhà cửa, trừ ngôi đền. Phật Mã coi đó là một dấu hiệu siêu nhiên và tổ chức cúng tế và ban lễ tước cho thần linh. VĐULT còn nói là hoả hoạn trong thế kỷ XIII thiêu trụi kinh thành ba lần, nhưng mỗi lần ngôi đền đều được nguyên vẹn.
Thần linh Long Đỗ được coi như thần linh trội bật nhất vương quốc, vì là thần linh coi giữ địa điểm của thủ đô. Một vị tướng nước ngoài tìm cách thống trị nơi đây nhưng cũng bị thần linh làm cho khiếp sợ phải bỏ đi. Và trong thời Phật Mã, thần linh tỏ rõ sức mạnh chống lại dông bão. Tin tức về ngôi đền tồn tại qua ba trận hoả hoạn trong đời Trần chứng tỏ người Việt Nam thế kỷ XIII tiếp tục tìm thấy bằng chứng của sức mạnh thần linh. Họ cho rằng việc thờ phụng thần linh này là nhờ Phật Mã.
Còn một thần linh cần nhắc tới liên quan đến Phật Mã, tuy VĐULT không nói tới sự liên quan này. Đó là Hậu Tắc, người giữ việc nông trong thời vua Thuấn truyền thuyết thời hoàng kim cổ đại Trung Quốc. Dân Trung Quốc tôn thờ Hậu Tắc là “Thần nông nghiệp” ngay từ đời nhà Chu. Theo VĐULT, Hậu Tắc dạy dân “trồng mọi loại ngũ cốc” và bàn thờ Hậu Tắc được dựng nên ở cửa Nam La Thành đời Đương, tiền thân của Đại La, Thăng Long. Chúng ta giả định việc nhờ Hậu Tắc được lập ra ở Việt Nam thời còn là một tỉnh của Trung Quốc, có lẽ trong đời Đường. Theo Việt sử lược, Đinh Bộ Lĩnh lập bàn thờ Hậu Tắc năm 986, có lẽ ở Hoa Lư, và năm 1048, Lý Phật Mã lập bàn thờ Hậu Tắc ở Thăng Long. Chúng ta có thể cho rằng Lý Phật Mã đã sửa chữa và xây dựng lại bàn thờ thời Đường, và việc thờ cúng Hậu Tắc, như ta biết trong thời Trần, bắt đầu từ 1048. Việc thờ cúng này căn cứ vào việc công nhận nông nghiệp là nền móng của sự ấm no kinh tế của ngôi vua. Việc thờ cúng Hậu Tắc của Phật Mã có thể đã góp phần làm cho thần linh này được đặt cùng các vị thần mà nhà Trần tôn vinh là đã có công đắc lực trong việc chống quân Nguyên – Mông.
Tôi đã lập luận rằng bộ máy triều đình nhà Lý không cai quản mọi bộ phận của vương quốc mà chỉ trực tiếp kiểm soát một vùng cốt lõi xung quanh thủ đô. Lãnh đạo trong đời thường và quan hệ triều cống với Trung Quốc, lãnh đạo tôn giáo nhằm nuôi dưỡng tính dân tộc, tập trung vào các hình thức tín ngưỡng thịnh hành thời đó, từ cúng lễ thần linh đến chỉnh đốn chùa chiền Phật giáo. Sự tập trung đó cao hơn chủ nghĩa thần linh, cao hơn Phật giáo, coa hơn thờ phụng vua; tôi gọi đó là “tôn giáo đời Lý”. Tôi cho rằng “tôn giáo đời Lý” làm một giai đoạn quan trọng trong quá trình biến đổi của thực thể dân tộc Việt. Các bộ tộc mạnh ở khu vực trung thành với vua Lý không phải vì các quan chức có thể áp đặt sự tuân thủ, mà vì họ tin tưởng ở vua Lý. Họ tin là vua Lý có đạo đức, có khả năng xử lý với các uy lực siêu nhiên ở trong nước, có thể giành được sự ủng hộ của siêu nhiên để đất nước được phồn vinh. Nhà Lý được thiết lập qua sự ủng hộ chung của mọi người, không phải qua một chiến dịch bình định. Trong thế kỷ XII, một loại thiếu đế để quyền lực rơi vào tay dòng mẹ đối địch ở trong triều. Các dòng họ này là những thế lực khu vực, cho đến lúc đó vẫn vui lòng nằm dưới bóng của các vua Lý. Nhưng khi không có vua mạnh, đã trưởng thành, thì họ thấy họ đứng giữa thời cuộc, vì những kẻ đối địch với họ càng thêm đối địch, “tôn giáo đời Lý” chuyển biến từ tin sang “không tin nữa” và qua mỗi trận đánh nhau giữa các thế lực khu vực lại bị đánh thêm một đòn mới, bạo lực gia tăng vào đầu thế kỷ XIII.
Với một số người, cái mà tôi mô tả là “tôn giáo đời Lý” có vẻ không khác gì với các thuyết về bản chất của quyền lực và tính chân chính của các hoàng đế Trung Quốc. Đúng, về lý thuyết có sự giống nhau trong giả định rằng vua có đạo đức và đạo đức của vua là dấu hiệu Trời ủng hộ và ban cho quyền trị vì. Nhưng ở đây, sự phân tích không phải về mặt lý thuyết. Trong lịch sử, các lý thuyết này thể hiện qua các nghi lễ, các cách ngôn xử thế ở triều đình Trung Quốc, trong khi quyền lực thực sự lại tuỳ thuộc vào sự kiểm soát hành chính. Ở nước Việt Nam đời Lý, tôn giáo chưa biến thành một số nghi lễ và cách ngôn xử thế, mà tôn giáo có thực chất quyền lực nhà nước. Các vua Lý được tuân theo vì được dân chúng tin tưởng. Triều Lý vươn lên một cách tuyệt vời trong thế kỷ XI vì liên tục có một số vua đáng tin cậy, theo những tiêu chuẩn và cung cách suy nghĩ thể hiện trong “tôn giáo đời Lý”.
Đào Hùng (lược thuật)
Nguồn: Xưa và Nay, số 81, tháng 11 – 2000, trang 35 – 37








