Đông y là nguồn phát minh nhiều vị thuốc hay, nhiều phương thuốc quí. Điều đó, ai cũng công nhận. Nhưng chẳng biết vì sao, có một nguyên tắc thường gắn kết với nhiều sự kiện: đó là “cái gì hiếm thì mới hay, mới quí để dùng làm thuốc”. Chẳng hạn loài Cọp thường ở rừng sâu, ít thấy, ít gặp thì cao hổ cốt là thuốc hay, thuốc quí. Ngũ linh chi (phân Sóc) dùng làm thuốc thì phải là phân của loài Sóc bay chứ không dùng phân của loài Sóc thường chỉ biết chạy nhảy… Tê giác cũng không ngoại lệ này. Ngày nay, Tê giác đang trên đà tuyệt chủng nên giá trị của nó càng được nâng cao lên, đến nỗi một ký sừng tê giác có giá trị bằng mấy ký vàng! Tê giác Java (Rhinoceros sondaicus) |
Vị thuốc Tê giác (Cornu Rhinoceri), là sừng của loài Tây ngu (tê ngưu) như tê giác một sừng Ấn Độ ( Rhinoceros unicornis), tê giác Java ( Rhinoceros sondaicus), tê giác Sumatra( Rhinoceros sumatrensis), hắc tê giác hai sừng ( Rhinoceros bicornos), bạch tê giác ( Rhinoceros simus). Ngoài ra còn có vị Quảng giác hay sừng tê giác châu Phi (Cornu Rhinoceri africani) cũng tham gia thị trường Đông dược. | Tê giác Sumatra (Rhinoceros sumatrensis) |
 | Hắc tê giác hai sừng (Rhinoceros bicornis) | Về dược tính, nếu theo truyền thuyết hoặc những lời đồn đại trong dân gian thì Tê giác có thể chữa được rất nhiều bệnh khó, nan y kể cả ung thư… nhất là khi những người giàu có mắc bệnh không chữa được thì giới buôn Tê giác sẽ đến để vẽ vời đủ thứ… Theo ý kiến của một lương y đã từng dùng nhiều sừng Tê giác, nay đã trên 90 tuổi: “Thời gian trước 1950, Tê giác còn nhiều, lương y giỏi cũng không thấy ai nhờ sừng tê giác mà chữa khỏi các bệnh hiểm nghèo, hoặc sống lâu bằng người ngày nay, cho nên thời đó cụm từ - Thất thập cổ lai hy - đúng hơn bây giờ”.  | Bạch tê giác (Rhinoceros simus) | Trở lại với sách vở Đông y truyền thống, sách “Dược tài Đông y” của Lê Quí Ngưu - Trần Thị Như Đức ghi: Tê giác có vị đắng, chua, mặn, tính hàn. Tác dụng vào 3 kinh tâm, can, vị để thanh huyết nhiệt (làm mát máu), giải ôn độc và định kinh. Thường dùng trong các chứng sốt quá hoá điên cuồng, sốt vàng da, thổ huyết, chảy máu cam, động kinh, nói sảng, thương hàn, huyết nóng đưa lên gây thổ huyết, chảy máu cam, nhiệt độc sung đau. Liều dùng 3 - 4 gam, có thể dùng đến 12 - 24 gam/ ngày. Mài trong chén đá với nước hoặc sắc hay tán bột uống.  | Sừng trán và sừng mũi của tê giác trắng sừng do lớp mao mạch biểu bì tạo thành. A. Dưới ánh sáng huỳnh quang B. C. Dưới ánh sáng thường D. Qua điện toán cắt lớp | Với những tác dụng nêu trên, các nhà Trung y ở Quảng Đông đã dùng sừng trâu để thay thế sừng tê giác cho thấy cũng có tác dụng tốt. Bản chất của sừng tê giác Cấu trúc của sừng tê giác từng là đề tài bàn luận tranh cãi của nhiều chuyên gia. Do chưa có tư liệu khoa học thuyết phục, nhiều người vẫn cho rằng sừng tê giác phải có cấu trúc sừng như các loài động vật bộ móng guốc với lý do sừng tê giác cũng rất “cứng như sừng”. Trước đây, người ta cho rằng sừng tê giác không phải là sừng vì nó được cấu tạo từ khối da trước mõm con vật, chứ không phải từ xương như sừng nai, sừng trâu. Mới đây, khảo sát của Tobin L. Hieronymus, Lawrence M. Witmer và Ryan C. Ridgely thuộc đại học Ohio, Hoa Kỳ đã chứng tỏ rằng cấu trúc của sừng tê giác có cùng nguồn gốc với tóc, móng tức là được tạo ra từ thành phần chủ yếu của chất sừng (keratin) chứ không phải là chất cốt giao (gelatin). Khảo sát bằng hình ảnh điện toán cắt lớp  | Quan sát phẫu thức (dày 200 micron) cho thấy hàm lượng melanin ở vùng đậm cao hơn vùng nhạt. | Nhờ có được một cặp sừng (gồm một sừng mũi và một sừng trán của một tê giác cái 34 tuổi) và một sừng trán của một con tê giác đực 42 tuổi chết không rõ nguyên nhân, Đại học Ohio đã tiến hành khảo sát cấu trúc sừng tên giác bằng điện toán cắt lớp (xem hình 7) thì thấy rằng sừng tê giác có cấu trúc kỳ lạ, khác hẳn các loài có sừng của bộ móng guốc.  | Cấu trúc cắt ngang một lớp tế bào sừng tê giác với các tế bào sừng dạng ống rỗng màu nhạt, vùng quanh các ống có màu đậm hơn do nhiều melanin hơn và lớp vàng nhạt là phần ít melanin. | Qua các hình ảnh thu nhận và khảo sát, các tác giả đã chứng minh rằng sừng tê giác là phần kéo dài ra của phần mao mạch biểu bì (epidermal capillary), trở thành cứng và có dạng như sừng nhờ vào bộ khung gồm các tế bào ống keratin hoá được tẩm canxi. Quá trình vôi hoá các tế bào ống do muối phốt phát canxi kết hợp với hắc tố (melanin) đọng lại trên khung keratin tạo ra. Tỉ lệ melanin trong sừng tê giác khảo sát, được phát hiện nhờ mức độ đậm nhạt quan sát trên phẫu thức. Các tế bào ống được tạo ra từ mô bì tăng sinh. Mỗi ống được tạo ra từ một tế bào của mô này. Muối phosphat canxi có dạng bát giác giống như hydroxyapatit. Tóm lại, sừng tê giác là loại sừng có cấu trúc đặc biệt, nhưng thành phần hoá học thì tương tự tóc người hay sừng nai, trâu, bò. Các nhà khoa học xếp chúng vào dạng cấu trúc của vuốt, mỏ chim, rùa… Các hình ảnh thu lượm được qua hình ảnh điện toán cắt lớp dô các nhà nghiên cứu thuộc Đại học Ohio đã chứng tỏ điều này. Với thành phần chính là keratin, melamin và canxi phosphat, những dược tính được gán ghép cho sừng tê giác cần được nghiên cứu thêm. Việc chứng minh là sừng thật hay giả có thể p hát hiện được đơn giản và nhanh chóng hơn qua ánh sáng huỳnh quang đặc trưng của tia cực tím khi chiếu vào. |