Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 31/12/2011 19:30 (GMT+7)

Sự mơ hồ về pháp lý của “đường lưỡi bò”

Bởi vì họ đã rất "khéo léo” kết hợp con đường này cùng với các khái niệm đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Luật Biển quốc tế bằng tuyên bố theo kiểu Trung Quốc "có chủ quyền không thể tranh cãi” với các vùng nước phụ cận với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và khi mọi người đều hiểu như vậy, Biển Đông sẽ trở thành cái "ao nhà” của Trung Quốc.

Năm 1962, Ủy ban Pháp luật Quốc tế đã thực hiện một nghiên cứu về "Quy chế pháp lý của vùng nước lịch sử, bao gồm cả vịnh lịch sử”, nghiên cứu này trả lời cho câu hỏi những tiêu chuẩn nào sẽ được áp dụng để xác định tính hợp pháp của một yêu sách chủ quyền lịch sử. Theo đó thì một vịnh hay một vùng nước được coi là lịch sử, căn cứ theo tập quán quốc tế và các phán quyết của toà án phải thỏa mãn ít nhất ba điều kiện sau: 1) Quốc gia ven biển thực thi chủ quyền của mình đối với vùng được yêu sách; 2) Sự liên tục của việc thực thi quyền lực đó theo thời gian; 3) Quan điểm của các quốc gia khác với yêu sách đó. Ngoài ra, một quốc gia có yêu sách danh nghĩa lịch sử phải có trách nhiệm đưa ra bằng chứng đối với các vùng nước có vấn đề đang tranh cãi này.

Như vậy, bất cứ chính quyền nào yêu sách vùng nước nằm trong "đường lưỡi bò” là "vùng nước lịch sử” thì phải căn cứ vào các quy chế pháp lý, nếu các vùng nước này được yêu sách như vùng nội thủy thì các chính quyền yêu sách đó phải chứng minh được là họ đã thực thi chủ quyền một cách liên tục đối với các vùng nước bao bọc trong "đường lưỡi bò” qua một thời gian tương đối giống như đã thực thi chủ quyền đối với các vùng nội thủy khác. Nếu các vùng nước này được yêu sách như lãnh hải thì quốc gia nêu yêu sách phải chỉ ra được rằng họ đã thực thi chủ quyền một cách liên tục đối với các vùng nước bị bao bọc này trong một thời gian dài như họ đã thực thi chủ quyền đối với các vùng lãnh hải khác. Cũng tương tự như vậy nếu họ muốn yêu sách các vùng nước bị bao bọc như là vùng nước lịch sử.

Theo chế độ pháp lý của các vùng nội thuỷ, một quốc gia ven biển thực thi chủ quyền đầy đủ đối với vùng nước nằm phía bên trong đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải, tàu nước ngoài không có quyền đi qua trong vùng nội thuỷ của quốc gia ven biển, trừ khi được sự đồng ý của quốc gia đó. Các Nhà nước trong lịch sử Trung Quốc đến đầu thế kỷ XX hầu như chưa bao giờ đưa ra yêu sách vùng nước bên trong "đường lưỡi bò” như là vùng nội thuỷ. Trên thực tế, tàu nước ngoài, trong đó có cả tàu chiến vẫn thực hiện quyền đi lại trên vùng nước nằm trong "đường lưỡi bò” trước và sau khi "đường lưỡi bò” này xuất hiện trên bản đồ do Cộng hoà Trung Hoa (CHTH) xuất bản năm 1948, và chính quyền CHTH đã không hề có một hành động nào ngăn cản các tàu nước ngoài qua lại vùng biển này.

Với Công hàm ngày 7-5-2009 kèm theo bản đồ "đường lưỡi bò”, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH) lần đầu tiên chính thức đưa ra đòi hỏi về "chủ quyền không thể tranh cãi” của nước này trên hầu như gần trọn Biển Đông, biến Biển Đông thành "vùng nước lịch sử”, "ao nhà” của Trung Quốc. Tuy nhiên, để có thể tranh thủ được sự thừa nhận quốc tế, yêu sách "đường lưỡi bò” của Trung Quốc bắt buộc phải thỏa mãn các tiêu chí của pháp luật quốc tế trong đó có việc phải chứng minh được họ đã thực thi chủ quyền trong toàn bộ vùng biển thuộc "đường lưỡi bò” này một cách thật sự, lâu dài, hòa bình và liên tục. Cho đến nay, Trung Quốc vẫn chưa đưa ra được những bằng chứng thật sự khoa học và thuyết phục nào về việc họ đã thực thi chủ quyền thực tế trên toàn bộ vùng biển rộng lớn này một cách lâu dài, hoà bình và liên tục từ thời xa xưa, hàng nghìn năm trước như họ vẫn thường tuyên bố.

Các văn kiện chính thức của Nhà nước phong kiến Trung Quốc, như Đại Nguyên Nhất Thống Chí (1294), Đại Minh Nhất Thống Chí (1461), Đại Thanh Nhất Thống Chí (1842), trước năm 1909 đều khẳng định "cực Nam của lãnh thổ Trung Quốc là Nhai huyện, đảo Hải Nam”. Các bản đồ lãnh thổ Trung Quốc của người nước ngoài cùng thời cũng vẽ và giải thích phù hợp với cách hiểu này của người Trung Quốc. Bản đồ Trung Quốc thế kỷ XVII của Peter de Goyer và Jacob de Keyzer thuộc Công ty Đông Ấn - Hà Lan cũng có lời giải thích rất rõ: "Nơi xa nhất của Trung Quốc bắt đầu từ phía Nam đảo Hải Nam ở 18 độ vĩ Bắc, rồi từ đó ngược lên phía Bắc đến vĩ độ 42”. Trung Quốc chỉ thực sự bước chân lên quần đảo Hoàng Sa năm 1909 khi quần đảo này đã thuộc sự quản lý của chính quyền phong kiến Việt Nam, không còn là đất vô chủ. Về Trường Sa, cho tới tận năm 1932, Công hàm ngày 29-9-1932 của Phái đoàn ngoại giao CHTH tại Paris vẫn còn khẳng định các nhóm đảo "Amphitrite” (Lưỡi Liềm) và "Croissant” (An Vĩnh) của quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) "tạo thành phần lãnh thổ Trung Quốc nằm tận cùng ở phía Nam”.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu (TP. Hồ Chí Minh), trên hai trang 11b và 12a trích từ sưu tập bản đồ Võ Bị Chí (ghi lại cuộc hành trình của Trịnh Hòa trong thời gian 1405-1433 đi từ Trung Quốc qua Ấn Độ Dương tới châu Phi) có vẽ bản đồ Việt Nam tuy đơn giản nhưng cũng rõ ràng: "Nước Giao Chỉ Bắc giáp Khâm Châu Trung Quốc, Nam giáp nước Chiêm Thành, Đông giáp biển cả mang tên Giao Chỉ Dương, tức biển của nước Giao Chỉ”. Đây là tư liệu của người Trung Hoa khắc vẽ về nước Việt Nam và biển cả thuộc về Việt Nam từ thế kỷ XV. Năm 1842, tác giả người Trung Hoa - Ngụy Nguyên xuất bản sách Hải Quốc Đồ Chí mô tả và khắc vẽ bản đồ tất cả các nước trên thế giới và toàn thể năm châu bốn biển, theo phương pháp khoa học với kinh tuyến và vĩ tuyến. Trong sách này, Ngụy Nguyên đã vẽ hai bản đồ về Việt Nam. Trong đó, bản đồ thứ nhất vẽ sơ sài, chia Việt Nam ra hai phần (Việt Nam Đông đô và Việt Nam Tây đô). Ở ngoài khơi phía Đông hai phần Việt Nam, Ngụy Nguyên ghi rõ là Đông Dương Đại Hải, tức Biển Đông Rất Lớn. Cũng trong tác phẩm Hải Quốc Đồ Chí, Ngụy Nguyên còn khắc vẽ bản đồ An Nam Quốc với đường nét đúng kinh tuyến và vĩ tuyến rất rộng lớn và ngoài khơi nước An Nam có ghi rõ Đông Nam Hải, tức là Biển Đông Nam. Rõ ràng, hầu hết bản đồ Trung Hoa vẽ về Việt Nam từ thế kỷ XV hoặc trước nữa cho tới đầu thế kỷ XX đều ghi biển cả phía Đông Việt Nam là Giao Chỉ Dương hay Đông Dương Đại Hải hoặc Đông Nam Hải, đều có nghĩa là biển của nước Giao Chỉ (tức Việt Nam) hay đơn giản là Biển Đông (của Việt Nam). Các chứng cứ lịch sử chính thống còn ghi lại khá đầy đủ ít nhất từ đầu thế kỷ XVII Việt Nam đã thi hành chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa ở giữa Biển Đông một cách chính thức, liên tục, hòa bình và không hề có một quốc gia hay dân tộc nào đến khiếu nại hay tranh giành. Từ khi chiếm Việt Nam làm thuộc địa, chính quyền thực dân Pháp đã nhân danh Việt Nam thi hành chủ quyền trên Biển Đông đúng theo các quy định của công pháp quốc tế. Pháp đã xây dựng nhiều công trình dân sự và nghiên cứu khoa học trên các đảo thuộc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, chẳng hạn như hai trạm khí tượng theo hệ thống quốc tế trên đảo Hoàng Sa và đảo Ba Bình trong quần đảo Trường Sa.

Theo luật pháp quốc tế, quốc gia có yêu sách về chủ quyền đối với một vùng lãnh thổ phải công khai yêu sách của mình để các quốc gia liên quan có thể biết được và phải thể hiện rõ ràng ý chí thực thi chủ quyền trên lãnh thổ đó. Những hành vi bí mật, không chính thức không thể tạo nên cơ sở cho chủ quyền lịch sử. Trong trường hợp "đường lưỡi bò”, cả CHTH lẫn CHNDTH đều chưa bao giờ công bố chính thức yêu sách về con đường này và vùng biển bên trong con đường này. Sau Thế chiến thứ hai, tại Hội nghị San Francisco năm 1951, bốn mươi bảy trong số năm mươi mốt nước tham gia Hội nghị đã bỏ phiếu không chấp nhận giao hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc, điều đó khẳng định cộng đồng quốc tế chưa bao giờ chấp nhận hai quần đảo đó là lãnh thổ của Trung Quốc. Chính tại Hội nghị này, Trưởng Đoàn đại biểu của Chính phủ Quốc gia Việt Nam Thủ tướng Trần Văn Hữu đã long trọng tuyên bố khẳng định chủ quyền lâu đời của người Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và đã không gặp sự phản đối hay bảo lưu của đại diện nước nào. Đây là một sự kiện quan trọng chứng tỏ sự thừa nhận của cộng đồng quốc tế về chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Báo La Nature số 2916 ngày 1-11-1933 cho biết các hoạt động của chính quyền thực dân Pháp khẳng định chủ quyền thực tế trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thay mặt triều đình phong kiến Việt Nam bấy giờ

Hiệp ước hoà bình Trung - Nhật năm 1952 cũng ghi nhận rõ ràng sự kiện không thừa nhận hai quần đảo Spratly và Paracel (Hoàng Sa và Trường Sa) là lãnh thổ của Trung Quốc bị Nhật Bản cướp đoạt; chỉ công nhận Nhật Bản đã chiếm đoạt Mãn Châu, Đài Loan và Bành Hồ và phải trả lại cho Trung Quốc. Trước khi rút khỏi Việt Nam, chính quyền thực dân Pháp đã chính thức chuyển giao cho chính quyền miền Nam Việt Nam quyền quản lý các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1974 Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa khi đó đang được quản lý bởi chính quyền Việt Nam Cộng hòa và năm 1988 lại dùng vũ lực đánh chiếm một số đảo ở quần đảo Trường Sa thuộc quyền quản lý hợp pháp của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Những hành động cưỡng chiếm bằng vũ lực nói trên của Trung Quốc là bất hợp pháp, là hành vi xâm lược, vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế và đương nhiên không giúp tạo ra bằng chứng chủ quyền cho Trung Quốc đối với các quần đảo và hải đảo bị cưỡng chiếm bằng vũ lực của họ.

Theo luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc tính quan trọng nhất của một đường biên giới quốc gia là tính ổn định và tính xác định được. "Đường lưỡi bò” là một con đường không ổn định, được vẽ rất tuỳ tiện. Ban đầu, con đường này có 11 đoạn, trong đó có hai đoạn trong Vịnh Bắc Bộ. Sau này, từ năm 1953 hai đoạn trong Vịnh Bắc Bộ bị bỏ đi, chỉ còn chín đoạn mà không có lời giải thích nào. Cho đến nay, các học giả và Chính phủ Trung Quốc chưa bao giờ nêu rõ toạ độ địa lý, vị trí chính xác của từng đoạn cũng như toàn bộ chín đoạn của "đường lưỡi bò”. Hầu như không có một văn bản nào (dù là chính thức hay không chính thức) quy định hoặc giải thích về việc này. Chỉ có ông Phan Thạch Anh - một học giả Trung Quốc - là người duy nhất giải thích về lý do của sự thiếu ổn định và tính không xác định của "đường lưỡi bò”, đó là vì Trung Quốc muốn "để lại khả năng đưa ra những điều chỉnh cần thiết trong tương lai” (?).

Tính không ổn định và tính không xác định được coi là một trong những điểm yếu căn bản của yêu sách "đường lưỡi bò” của Trung Quốc. Nhưng còn một điểm yếu nghiêm trọng hơn là mặc dù yêu sách "đường lưỡi bò” đã được thể hiện nhiều lần trên bản đồ, nhưng cả CHTH lẫn CHNDTH đều chưa bao giờ có tuyên bố chính thức và rõ ràng về ý nghĩa và bản chất pháp lý của con đường này. Gần đây khi Trung Quốc gửi Công hàm cho Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc phản đối việc Việt Nam và Malaysia nộp Báo cáo về Ranh giới Thềm lục địa của mình cho Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên Hợp Quốc theo quy định của Công ước Luật Biển 1982 trong đó có gửi kèm một bản đồ thể hiện yêu sách "đường lưỡi bò” trên Biển Đông, Trung Quốc cũng không đề cập đến bản chất pháp lý của con đường này.

Trên thực tế, các cơ quan tài phán quốc tế cũng đã từng giải quyết những vụ mà các bên tranh chấp đưa ra yêu sách bằng con đường đứt đoạn trên biển. Các tòa án nói trên đã không chấp nhận yêu sách chủ quyền được thể hiện dưới dạng một con đường đứt đoạn và không xác định rõ vị trí cũng như cơ sở pháp lý theo tiêu chí của luật pháp quốc tế. Trên tinh thần đó, nếu Trung Quốc có đưa "đường lưỡi bò” như là một yêu sách chủ quyền đối với vùng biển trong con đường đó ra trước bất cứ một cơ quan tài phán quốc tế nào thì khó tránh khỏi sẽ bị cơ quan tài phán đó bác bỏ. Như vậy, theo luật pháp và thực tiễn quốc tế, "đường lưỡi bò” không thể được coi là "đường biên giới quốc gia” của Trung Quốc trên Biển Đông vì con đường này không ổn định, chưa được xác định dứt khoát, không chính xác (do không được đánh dấu bằng các toạ độ địa lý), không đáp ứng được các tiêu chuẩn tối thiểu của một đường biên giới quốc gia, và đặc biệt là không minh bạch về mục đích cũng như về bản chất pháp lý của nó.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.