Sử dụng đúng thuốc bảo vệ thực vật: bảo đảm an toàn môi trường và sức khoẻ
Để tìm hiểu tình trạng dư lượng thuốc BVTV trên rau ở các chợ đầu mối của TP. Hồ Chí Minh (chợ Mai Xuân Thưởng, chợ Cầu Muối, chợ Bà Chiểu) năm 1997, Trung tâm Kiểm định Thuốc BVTV phía Nam đã tiến hành lấy mẫu 5 loại rau chính (cải bẹ xanh, cải ngọt, cải bắp, cải xà lách và cải thảo), để phân tích dư lượng Methamidophos (đã bị cấm sử dụng) làm mẫu trong năm 1997 là loại thuốc nghi gây ngộ độc nhiều nhất.
Kết quả phân tích cho thấy.
- Số mẫu rau ở các chợ đầu mối TP. Hồ Chí Minh đạt chỉ tiêu an toàn về dư lượng thuốc chiếm 43%, 57% số mẫu còn lại vượt mức dư lượng qui định. Loại rau có mức dư lượng cao nhất là cải bẹ xanh và thấp nhất là cải xà lách.
- Cũng trong năm 1997, Trung tâm Kiểm định Thuốc BVTV phía Nam đã phân tích dư lượng thuốc trên 181 mẫu nông sản, phần lớn là rau tươi (133). Kết quả chỉ có 35 mẫu có dư lượng thuốc BVTV, trong đó, có 8 mẫu rau có dư lượng vượt mức cho phép. Loại thuốc để lại dư lượng nhiều nhất là các thuốc đã bị cấm sử dụng từ lâu và ba loại thuốc mới cấm tháng 6 này.
Tác động của thuốc BVTV đến môi trường
- Đối với sinh vật có ích:Các loại thuốc có phổ tác động rộng như M. Parathion, Decis chỉ diệt được 15-35% rầy nâu, nhưng diệt được 100% các loại côn trùng có ích sau 48 giờ xử lý. Theo điều tra của Chi cục BVTV TP. Hồ Chí Minh thì mật độ thiên địch trên ruộng rau của thành phố rất thấp. Do nông dân sử dụng thường xuyên thuốc BVTV.
- Đối với đất:Năm 1977, Trung tâm kiểm định thuốc BVTV phía Nam phân tích 39 mẫu đất thì chỉ có 3 mẫu có dư lượng thuốc BVTV, trong đó, có một mẫu có dư lượng thuốc DDT vượt mức qui định tiêu chuẩn VN 5941-1998.
Một số loại thuốc BVTV như Carbofuran, Benomyl, Thiobendazole khi tồn tại với lượng cao trong đất làm giảm rất lớn mật số của giun đất. Nếu phun 7,5 lít Carbofuran cho 1 công đất, giun sẽ chết (theo TS. Brown, 1997). Đó là chưa nói đến ảnh hưởng của thuốc BVTV đến hệ động vật không xương sống và hệ vi sinh vật có vai trò rất quan trọng đối với độ màu mỡ của đất.
- Đối với nước:Trong 16 mẫu nước mà trung tâm KĐT-BVTV phía Nam phân tích trong năm 1997 có 6 mẫu có dư lượng thuốc BVTV, trong đó, có hai mẫu nước máy do Công ty cấp nước Bình Thuận đưa phân tích có dư lượng thuốc BVTV trong nước, nhưng không vượt quá mức qui định đối với chất lượng thuốc HCH (đã cấm sử dụng từ lâu) và dư lượng 2,4 D.
Năm 1994, khi tôm nuôi bị dịch bệnh chết hàng loạt ở một số tỉnh phía Nam, Trung tâm KĐT-BVTV phía Nam đã phân tích 19 mẫu nước do Viện Nghiên cứu Thủy sản đưa, lấy từ các nơi nuôi tôm bị chết. Kết quả cho thấy tất cả 19 mẫu nước đều có dư lượng thuốc BVTV dưới mức qui định đối với nước mặt. (TCVB 5942-1995. Tổng hóa chất BVTV trừ DDT là 1,15 mg/l. DDT là 0,01mg/lít), Như vậy, tôm chết do dịch bệnh chứ không vì dư lượng thuốc trừ sâu. Dư lượng thuốc chỉ có khả năng là, giảm sinh khối trong nước và giảm quần thể động vật thủy sinh làm thức ăn cho tôm, cua, cá...Thuốc BVTV có thể bị mưa làm rữa và bị lắng trôi xuống các tầng đất sâu, bị bay hơi do tác động của nhiệt độ không khí, bị phân giải bởi tia cực tím của ánh sáng mặt trời và do vậy, đã dần bị phân rã. Mặt khác, ở trong đất, người ta đã chứng minh, xác định được nhiều loại vi sinh vật đất (bao gồm vi khuẩn, xạ khuẩn, nấm) có khả năng phân giải các phân tử thuốc BVTV và sử dụng những phân tử đó như là nguồn cung cấp carbon và năng lượng cho chúng phát triển. Mọi loại thuốc BVTV đang phép lưu hành trong sản xuất hiện nay khi được sử dụng ở liều lượng khuyến cáođều có những đặc điểm sau: Có hiệu lực trừ dịch hại tốt, có tính độc không quá cao đối với các sinh vật có ích và thiên nhiên, có khả năng phân giải chúng. Năm 1997 Trung tâm BVTV phía Nam đã phối hợp với hãng Zeneca làm thí nghiệm phun Paraquat đúng theo chỉ dẫn để trừ cỏ ở vườn cam có mương nước tại Tiền Giang. Kết quả phân tích là không có dư lượng Paraquat trong đất cũng như nước ở nơi thí nghiệm.
Tuy nhiên, cũng những loại thuốc đó, khi được sử dụng với liều lượng quá cao, với tần số sử dụng quá lớn (phun quá nhiều lần trong một vụ), chúng sẽ đưa lại những hậu quả hiển nhiên nhất mà chúng ta thường nói đến là việc sử dụng và quản lý không đúng đắn thuốc BVTV sẽ gây độc trực tiếp cho người, sinh vật có ích và môi trường. Có thể nêu ra một số thí dụ điển hình như: trên rau Đà Lạt, mặc dù hiện đang có phong trào làm rau sạch, nhưng không hiếm trường hợp vẫn có nông dân sử dụng Monitor phun hàng chục lần/vụ cho rau. Hoặc ở Tây Ninh, nhiều loại thuốc có tính độc cao như M. Parathion, Monitor, Thiodan đã được phun bình quân 6-7 lần/vụ để trừ sâu ăn lá trên đậu phộng. Trên mãng cầu đã gần chín, nông dân vẫn dùng Supracide thuộc nhóm độc I (LD 50 qua đường miệng của Supracide (Methidathion) là 44mg/kg) để phun trừ rệp sáp VÀ CÓ TRƯỜNG HỢP ĐÃ PHUN ĐỊNH KỲ 4 NGÀY/LẦN. Ở TP. Hồ Chí Minh rau xanh đã thu hoạch, tư thương còn bắt nông dân phải nhúng rau vào dung dịch Azodrin để rau có màu xanh đẹp mới mua!
Phần lớn nông dân trồng rau ở TP. Hồ Chí Minh phun định kỳ để phòng sâu bệnh. Đúng ra, chỉ phun khi mật độ sâu có thể gây hại cho cây rau. Họ phun thuốc bình quân 20-30 lần cho một vụ bắp cải và 80 lần cho một vụ hành (Ninh Thuận), 2/3 lần phun thuốc là thừa. Họ trộn 2-5 loại thuốc cho một lần phun, không cần biết các loại thuốc đó có trộn được với nhau không. Họ sử dụng cả các loại thuốc cấm dùng cho rau như M. Parathion, Méthamidophos, Monocrotophos, Furadan... Dụng cụ phun chủ yếu của nông dân là bình bơm đeo vai, với các kích cỡ khác nhau. Nông dân vẫn còn dùng ống thụt xịt thuốc cho rau, hoặc pha thuốc rồi tưới hoặc nhúng vào dung dịch thuốc với liều lượng khá đậm đặc. Các phun thuốc của nông dân hiện tại có thể làm cho > 40% dung dịch thuốc rơi xuống đất và một phần thấm vào người xịt thuốc. Sau khi phun thuốc, nông dân rửa bình bơm hay làm vệ sinh cá nhân ngay tại nguồn nước gần nhất (kinh, mương, ao hồ...).
Khi sử dụng thuốc BVTV, 69% nông dân không có gì bảo vệ miệng, mũi; > 60% mặc quần áo cụt; > 90% không có gì bảo vệ đầu. Thậm chí, có 60% nông dân hút thuốc trước, trong và sau khi phun thuốc và > 4% uống rượu ngay sau khi phun thuốc (điều tra 1.500 nông dân ở 16 tỉnh phía Nam - 1996 - Cục BVTV).
Sự hiểu biết của nông dân về thuốc BVTV và cách sử dụng thuốc an toàn còn quá ít: Có đến 25% nông dân cho rằng, thuốc BVTV không ảnh hưởng gì đến sức khỏe của họ và môi trường xung quanh, suy nghĩ chủ quan này là một góp phần cho các nguy hại ở thực tế đồng ruộng.
Nguồn: Phụ san Khoa học phổ thông, Số 429, 1998








