Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 03/07/2013 22:19 (GMT+7)

Sự biến đổi của văn hóa làng trong quá trình đô thị hóa

Làng và văn hóa làng được xem là những khuôn thước văn hóa rất riêng tạo nên sự đa dạng, phong phú, năng động và sáng tạo cho nền văn hóa dân tộc. Những khuôn thước văn hóa ấy chính là cốt lõi, nền tảng trong hành trang xây dựng cuộc sống hiện tại và tương lai.

Vị trí và tầm quan trọng của làng và văn hóa làng luôn được khẳng định trong mục tiêu cũng như chiến lược phát triển của quốc gia trong từng thời kỳ. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập và đổi mới như ngày nay, Đảng và Nhà nước luôn coi văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, trong đó bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, mà cốt lõi là văn hóa làng, luôn là nhiệm vụ trọng tâm trong chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

Chiến lược và định hướng phát triển văn hóa dân tộc một lần nữa được khẳng định sâu rộng trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”(1). Trong đó Đại hội cũng đặc biệt chú trọng tới vấn đề phát triển hài hòa, bền vững và toàn diện văn hóa tại các vùng miền trong quá trình đô thị hóa và xây dựng nông thôn mới: “Phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, vừa phát huy những giá trị tốt đẹp của dân tộc, vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xử lý tốt mối quan hệ giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã hội, là một động lực phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế”. Sự phát triển và biến đổi của văn hóa làng Thanh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội là một minh chứng rõ nét phản ánh toàn diện quá trình chuyển mình của văn hóa làng quê trong quá trình đô thị hóa hiện nay theo chiến lược, định hướng và mục tiêu phát triển văn hóa của Đảng và Nhà nước ta đã đề ra trong Đại hội Đảng lần thứ XI.

Là một làng cổ xuất hiện cách đây khoảng hai ngàn năm tại cánh đồng Bồ Đa (xứ đồng thuộc thôn Trung ven sông Tô Lịch ngày nay), Thanh Liệt (xưa là Quang Liệt) có nền kinh tế nông nghiệp dồi dào, có truyền thống yêu nước và văn hóa lâu đời. Thanh Liệt không chỉ nổi tiếng với đặc sản vải ngon hay nhãn lồng, mà còn là vùng đất văn võ lâu đời với những con người kiệt xuất như danh tướng Phạm Tu (476-545) và nhà giáo Chu Văn An (1292-1370). Diện mạo văn hóa làng Thanh Liệt được thể hiện ở cấu trúc nội tại của nó qua 2 yếu tố: văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Văn hóa vật thể được tạo nên bởi một quần thể di tích, gồm: đình Nội (nơi thờ Chu Văn An), đình Ngoại (nơi thờ Phạm Tu), đình Lý Nhân, chùa Quang Ân, chùa Long Quan, chùa Quang Phúc, miếu Vực, miếu Thổ Kỳ, những ngôi nhà thờ họ của 26 dòng họ gốc trong làng; hệ thống đường làng xương cá lát gạch nghiêng; 10 cổng làng với kiến trúc riêng, những ngôi nhà ngói 3 gian 2 trái, những lũy tre san sát, dày đặc… Văn hóa phi vật thể được kết tinh trong bản hương ước gồm 175 điều được xây dựng năm 1908; những sinh hoạt tín ngưỡng như: thờ cúng tổ tiên, thờ thành hoàng làng và thờ thần nông nghiệp; những lễ tiết trong năm như: tết Nguyên đán, lễ lên lão, lễ cưới, lễ tang và đặc biệt là lễ hội truyền thống của làng được tổ chức hàng năm từ ngày mùng 8 đến mùng 10-2 âm lịch; lối sống nghĩa tình keo sơn, mộc mạc… Văn hóa làng Thanh Liệt đã nuôi dưỡng nên những con người kiệt xuất, những giá trị văn hóa truyền thống độc đáo, tạo nền tảng vững chắc cho sự tồn tại, phát triển và giao lưu trong xu thế đổi mới và hội nhập.

Là một làng ven đô, nằm trong khu vực trọng điểm của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, làng Thanh Liệt đã có những thay đổi rõ rệt trong mọi khía cạnh của cuộc sống: Tốc độ phát triển kinh tế cao với sự chuyển dịch cơ cấu theo xu hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp (20% năm 2009), tăng tỷ trọng thương mại dịch vụ (43% năm 2009) và tiểu thủ công nghiệp (37% năm 2009); đất đai có sự chuyển đổi nhanh và mạnh từ đất nông nghiệp, đất ao, hồ, đầm, đất chưa sử dụng sang đất dùng cho các khu công nghiệp, khu chung cư, khu nhà trọ…; mức sống người dân được nâng cao, cơ sở hạ tầng phát triển nhanh chóng; lối sống đô thị được hình thành, diện mạo văn hóa truyền thống của làng có nhiều sự biến đổi... Tất cả đã tạo nên một diện mạo mới, một diện mạo với sự đan xen giữa làng và phố, giữa truyền thống và hiện đại, giữa cái tích cực tiến bộ và cái tiêu cực lạc hậu cho làng quê Thanh Liệt.

Xu hướng biến đổi văn hóa làng Thanh Liệt trong quá trình đô thị hóa hiện nay là phục hồi văn hóa truyền thống và tái cơ cấu để những yếu tố văn hóa này thích nghi và phát triển tốt trong xã hội hiện đại. Khi kinh tế phát triển ổn định, khi làng quê trở nên cởi mở và linh hoạt hơn cho sự biến đổi và tiếp thu các giá trị văn hóa mới, khi làng có nguy cơ tan vào đô thị thì cũng chính là lúc người dân ý thức được những giá trị trong văn hóa làng quê. Đời sống tâm linh của người dân ngày một phong phú, đa dạng với những sự đầu tư lớn từ nhiều nguồn, nhiều đối tượng khác nhau. Hoạt động công đức đa dạng và phát triển như hiện nay tại Thanh Liệt nói riêng và tại các làng quê nói chung, càng khiến cho dân làng có điều kiện để phục hồi mạnh mẽ hơn nữa truyền thống văn hóa của làng, sau một thời gian dài lặng chìm do chiến tranh, nghèo khó và sự chưa cởi mở của chính sách. Sự phục hồi đó được thể hiện trong sự đầu tư vào hệ thống di tích, các hoạt động văn hóa tâm linh và các hoạt động cộng đồng của làng; việc tích cực tham gia và tăng cường sự giao lưu, trao đổi để thiết lập mạng lưới xã hội tốt trong và ngoài làng; phát động phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, gia đình văn hóa… Tất cả đều nhằm mục đích bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của làng, cũng như tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững của làng trong quá trình đô thị hóa hiện nay.

Nhìn một cách tổng quát, những biến đổi trong văn hóa truyền thống làng Thanh Liệt hiện nay đang diễn ra theo hướng tích cực nhiều hơn là tiêu cực. Song ẩn chứa bên trong là những vấn đề phức tạp, đôi khi vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Có thể đưa ra không ít ví dụ.

Sự đa dạng hóa ngành nghề trong cơ cấu kinh tế và tốc độ đô thị hóa cao đã trực tiếp tác động đến không gian, cảnh quan của làng. Tốc độ phát triển đô thị hóa nhanh khiến cho không gian cảnh quan của làng đã không còn giữ được những nét đẹp cổ kính và uy nghiêm. Kiến trúc xây dựng, cũng như đời sống sinh hoạt đậm chất thị thành của dân cư Thanh Liệt.

Tính thực tế có phần thực dụng, do cơ chế thị trường tạo ra, còn làm thay đổi giá trị, ý nghĩa của các sinh hoạt tôn giáo tín ngưỡng, lễ hội của làng. Theo đó nhiều hình thức mê tín dị đoan vẫn còn tồn tại trong đời sống tâm linh của dân làng.

Điều kiện kinh tế và cơ chế thị trường tạo cho dân làng một cuộc sống sung túc, năng động, tự chủ và đề cao cá nhân; nhưng lại khiến cho quan hệ gia đình, họ mạc trở nên lỏng lẻo, tình thân và ý thức trách nhiệm trong cộng đồng làng giảm sút, tệ nạn xã hội vì thế có cơ hội phát triển mạnh mẽ hơn.

Văn hóa truyền thống đang được phục hồi rõ nét tại làng Thanh Liệt: các di tích lịch sử đều được phục dựng, tu sửa; hội làng được tổ chức hàng năm, đời sống tâm linh của người dân ngày một đa dạng và hướng về nguồn cội... Đó là những tín hiệu đáng mừng nhưng cũng còn điều bất cập. Hiện tượng phục cổ một cách cứng nhắc, hoặc pha tạp, lai căng đang tạo ra những phản ứng tiêu cực. Khôi phục một cách tràn, thiếu kiến thức, tam sao thất bản vô hình chung đã làm mất đi những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp cần lưu giữ cho muôn đời sau.

Hơn nữa, quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa và biến đổi văn hóa hiện nay đã đem lại cho làng một diện mạo mới mở rộng về kết cấu quy mô làng và linh hoạt trong sản xuất kinh tế văn hóa, nhưng cũng đã và đang đặt ra cho làng hàng loạt những thách thức không nhỏ như: ô nhiễm môi trường, sự quá tải về lao động nhập cư, sự mâu thuẫn về đất đai, sự cạnh tranh nhiều khi thái quá trong cộng đồng, sự khủng hoảng về lối sống, sự gia tăng của các tệ nạn xã hội… Để khắc phục và giảm bớt những thách thức, khó khăn trên rất cần một tổng thể những giải pháp điều chỉnh để giữ được sự cân bằng giữa bảo tồn và phát triển văn hóa làng trong tầm nhìn, sự quản lý sát sao của các cấp chính quyền đến sự nỗ lực của toàn thể nhân dân trong làng.

Nằm trong tổng thể những giải pháp điều chỉnh, ta có thể kể tới một số những giải pháp cụ thể sau đây.

Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, giáo dục và xây dựng ý thức cộng đồng trong nhân dân. Công tác này phải được thực hiện bằng việc làm cụ thể tại địa phương, chứ không thể tuyên truyền giáo dục một cách hình thức, như: đưa công tác tuyên truyền, giáo dục và nâng cao ý thức tự giác của người dân trong việc bảo vệ những di sản văn hóa truyền thống đi sâu vào nhiều hoạt động cụ thể của các đoàn thể xã hội trong làng (hội người cao tuổi, hội phụ nữ, hội nông dân, hội cựu chiến binh, đoàn thanh niên…); đưa công tác bảo tồn di sản văn hóa truyền thống vào hương ước của làng, nhằm tạo tính pháp lý trong việc thực thi, đồng thời nâng cao ý thức, trách nhiệm cho người dân; xã hội hóa công tác tuyên truyền, giáo dục ý thức tự giác của người dân thông qua việc huy động các nguồn lực về tài chính, trí tuệ trong việc bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống của địa phương; tại các di tích lịch sử, đặc biệt là những di tích đã được xếp hạng của làng nên cho dựng những tấm bia lớn giới thiệu tóm tắt và đầy đủ về lịch sử hình thành cũng như những giá trị lịch sử của từng di tích; cho in các tờ gấp và những bài viết giới thiệu về di tích nhằm phát cho dân làng và khách thập phương hoặc ghi âm thành băng phát trên loa truyền thanh trong dịp tổ chức hội làng hoặc những buổi sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo với quy mô lớn tại địa phương; tổ chức thường xuyên hoặc định kỳ những lớp tập huấn cho cán bộ cấp cơ sở về văn hóa nhằm đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ văn hóa tại địa phương. Đội ngũ cán bộ văn hóa ở Thanh Liệt hiện còn quá mỏng và thiếu am hiểu về văn hóa truyền thống. Chính điều này sẽ dẫn tới sự quản lý lỏng lẻo, cách xử lý không kịp thời làm mai một dần những giá trị văn hóa truyền thống của làng. Mặt khác, chế độ ưu đãi đối với cán bộ văn hóa cấp cơ sở cần được bổ sung, cải thiện cho phù hợp với số lượng lớn công việc mà họ phải đảm nhiệm. Được đào tạo và chế độ ưu đãi xứng đáng sẽ giúp mỗi cán bộ văn hóa tự nâng cao ý thức, trách nhiệm, trở thành những tấm gương đi đầu trong việc bảo vệ những giá trị văn hóa truyền thống.

Thứ hai, xây dựng và quy hoạch tổng thể không gian văn hóa. Không gian văn hóa truyền thống làng Thanh Liệt hiện chưa đồng bộ trong xây dựng và chưa có quy hoạch tổng thể. Những đề án quy hoạch để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của làng chưa có được quy mô tương xứng với các dự án phát triển kinh tế. Chương trình xây dựng nông thôn mới, trong đó có các đề án như: xây dựng nhà văn hóa ở mỗi thôn, phục dựng và tu bổ những di tích lịch sử… vẫn là những đề án được thực hiện một cách riêng lẻ chứ không dựa trên sự quy hoạch tổng thể. Điều này sẽ dẫn tới sự lãng phí, thất thoát nguồn vốn đầu tư xây dựng; dẫn tới việc bảo tồn, phục dựng một cách tràn lan, dàn trải và gây khó khăn trong công tác quản lý. Do vậy, xây dựng một đề án quy hoạch tổng thể gắn kết trong chương trình xây dựng mô hình nông thôn mới nhằm tạo ra một không gian riêng cho sinh hoạt văn hóa dân gian và phát triển du lịch tâm linh của làng là một việc làm cần thiết hiện nay, giúp địa phương có hướng đầu tư trọng tâm, trọng điểm trong công tác bảo tồn, phục dựng những giá trị văn hóa truyền thống của làng trên nhiều phương diện: bảo tồn các giá trị văn hóa vật thể (phục dựng, tu bổ những di tích lịch sử đang có sự xuống cấp nghiêm trọng trong làng, tu bổ và bảo vệ những nhà thờ họ có tính chất nguyên mẫu thể hiện được những nét đẹp truyền thống từ không gian, kiến trúc đến việc bài trí bên trong); bảo tồn những giá trị văn hóa phi vật thể (lưu giữ những nét đẹp cổ truyền trong sinh hoạt tín ngưỡng, trong phong tục tập quán của người dân; tổ chức và phục dựng lại một số trò chơi dân gian trong lễ hội truyền thống của làng như: diễn tuồng, diễn chèo, đánh cờ người, đánh trận giả, đánh đu, thả diều…); xây dựng những mô hình phát triển kinh tế du lịch văn hóa nhằm đem lại nhiều lợi ích cho người dân (tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập kinh tế, đem đến một môi trường sinh hoạt lành mạnh và tạo sự thống nhất, nghiêm ngặt trong công tác quản lý).

Thứ ba, phục dựng, tu bổ và bảo vệ các di tích. Đây là công việc cần sớm được triển khai trước tình trạng chuyển đổi, thu hồi và xâm lấn đất đai trong việc xây dựng các khu công nghiệp, vui chơi giải trí, nhà chung cư, cơ sở hạ tầng công cộng… tại địa phương. Công tác quản lý di sản văn hóa, bảo vệ các di tích cần chú trọng một số việc như: khoanh vùng hoặc xây dựng tường rào bảo vệ với các di tích đã được xếp hạng, nhất là những di tích nằm trên những vị trí nhạy cảm, đất đai có giá trị, nhằm tránh sự xâm lấn về diện tích cũng như cảnh quan xung quanh các di tích; ưu tiên phục dựng, tu bổ các di tích chưa được xếp hạng; xây dựng hệ thống các quy định, các nguyên tắc trong bảo vệ các di vật bên trong các di tích, nhất là các di vật quý như chuông, khánh, sắc phong, bài vị, bát hương cổ…; tăng cường năng lực của các ban quản lý di tích bằng việc cử những người có uy tín, trách nhiệm và trình độ đảm trách việc tu bổ và bảo vệ các di tích; có những quy định cụ thể về quyền hạn, trách nhiệm đối với từng ban và cá nhân. Trong việc tu bổ, nâng cấp, xây mới các công trình thờ cúng của cộng đồng, của các dòng họ phải đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất trong cảnh quan chung của làng; giữ gìn được những nét đẹp cổ truyền, tránh khuynh hướng muốn làm to, làm hiện đại mà xóa bỏ đi những sáng tạo văn hóa của cha ông; chú trọng sự tương xứng giữa nội dung và hình thức di tích, tránh tình trạng hoành tráng bề ngoài nhưng trống rỗng bên trong; khuyến khích xây dựng những công trình với khuynh hướng phục cổ có văn hóa và khoa học.

Thứ tư, tổ chức nghiên cứu khoa học về diện mạo văn hóa làng.Để có được những công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về văn hóa làng Thanh Liệt nói riêng và văn hóa làng nói chung, chính quyền từng địa phương cần: đầu tư kinh phí, trụ sở, nhân lực và trang thiết bị trong việc xây dựng thư viện, nhà văn hóa trên địa bàn; kêu gọi sự tham gia và đóng góp của những nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài địa phương, của những bậc lão thành có am hiểu về văn hóa truyền thống xưa của làng; khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho những người đã và đang có tâm huyết muốn nghiên cứu về văn hóa truyền thống của làng.

 Qua thực tiễn biến đổi của văn hóa làng Thanh Liệt nói riêng và văn hóa dân tộc nói chung trong quá trình đô thị hóa hiện nay, có thể thấy rằng: giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc góp phần phát triển kinh tế nông thôn bền vững, giữ được diện mạo, môi trường lành mạnh của làng quê, đồng thời xây dựng người nông dân mới vừa có trình độ khoa học công nghệ tiên tiến vừa có bản lĩnh, cốt cách của con người Việt Nam luôn là mục tiêu và chiến lược phát triển bền vững của quốc gia.

Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Chủ tịch Phan Xuân Dũng dẫn đoàn Việt Nam tham dự Triển lãm quốc tế về Sáng tạo khoa học công nghệ (SIIF 2025) tại Seoul
Từ ngày 3-7/12, Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) được tổ chức tại thủ đô Seoul, Hàn Quốc. Theo lời mời của Hiệp hội Xúc tiến sáng chế Hàn Quốc (KIPA), Quỹ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (VIFOTEC) đã thành lập đoàn tham gia Triển lãm quốc tế về khoa học công nghệ (SIIF 2025) do TSKH. Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam, Chủ tịch Quỹ VIFOTEC - làm trưởng đoàn.
Tìm giải pháp truyền thông đột phá cho phát triển khoa học công nghệ
Nghị quyết 57-NQ/TW xác định vị thế khoa học, công nghệ và chuyển đổi số là chìa khóa để Việt Nam vươn mình, trở thành quốc gia phát triển. Giới chuyên gia đưa ra lộ trình cụ thể giúp truyền thông chính sách thành hành động, từ xây dựng tòa soạn thông minh đến phát triển hệ sinh thái nội dung số.
Liên hiệp Hội Việt Nam tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ
Chiều ngày 09/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) đã tổ chức buổi tiếp nhận kinh phí ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên bị thiệt hại do mưa lũ. Đây là hoạt động tiếp nối tinh thần của Lễ phát động ủng hộ đồng bào miền Trung, Tây Nguyên do Liên hiệp Hội Việt Nam tổ chức vào ngày 24/11 vừa qua.
Trí thức Việt Nam đồng hành cùng tương lai Xanh
Đội ngũ trí thức Việt Nam luôn đóng vai trò then chốt với những đóng góp trong nghiên cứu, chuyển giao công nghệ, đổi mới sáng tạo, tư vấn chính sách và truyền cảm hứng cộng đồng. Những chuyển động mạnh mẽ về khoa học môi trường, năng lượng sạch, kinh tế tuần hoàn và công nghệ xanh trong thời gian qua có dấu ấn đậm nét của đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ nước ta…
Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất về cơ cấu, số lượng người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XVI
Ngày 4/12, tại Hà Nội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất để thảo luận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XVI.
Triển khai thực hiện các văn bản mới của Trung ương về về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng
Chiều 4/12 tại Hà Nội, Đảng ủy Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiêp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị quán triệt và triển khai Quy định 367-QĐ/TW và Hướng dẫn số 05 - HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương về một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng.