Sỏi thận và đường tiết niệu
Con đường hình thành sỏi
Trong nước tiểu có canxi oxalat, axit uric và photphat. Chừng nào những chất này hoà tan bình thường trong nước tiểu mọi chuyện đều trôi chảy, nhưng khi gặp một trục trặc nào đó khiến tỷ lệ các chất thay đổi, hoăc trong cơ thể thiếu nhiều nước sẽ xuất hiện các tinh thể có hình dạng khác nhau trong nước tiểu. Sỏi đường tiết niệu chính là những tinh thể này. Như vậy, sỏi đường tiết niệu là do sự kết hạch của một số phần tử trong nước tiểu ở những điều kiện lý hoá nhất định và do nhiều nguyên nhân phức tap.
Trong thực tế, không phải chỉ có một loại sỏi mà có nhiều loại sỏi có thành phần hoá học khác nhau, thường gặp nhất là sỏi canxi oxalat, rồi đến sỏi canxi photphat, sỏi axit uric và sỏi xystin. Trong các loại sỏi trên, sỏi canxi oxalat chiếm tỷ lệ cao, tới 70%-80%, thường gặp ở lứa tuổi 50 và xảy ra nhiều ở nam giới (88,4% các loại sỏi)
Triệu chứng
Sỏi gây ra nhiều triệu chứng và tác hại khác nhau tuỳ theo kích thước to hay nhỏ và vị trí của chúng trong đường tiết niệu. Nhiều hơn cả vẫn là sỏi thận. Nếu kích thước của sỏi nhỏ hơn 4mm và hình thù nhẵn, chúng sẽ di chuyển từ thận xuống niệu quản, bàng quang và bị thải ra ngoài theo niệu đạo. Nhưng nhiều khi sỏi cố định ở đài thận làm cho nhu mô thận chỗ có sỏi bị giãn ra mỏng dần. Sỏi ở bể thận cũng có thể cố định hay di chuyển.
Người bị sỏi thận thường có những triệu chứng rõ rệt, dễ nhận thấy. Bệnh nhân bị đau vùng thắt lưng, đặc biệt lúc sỏi di chuyển và có những cơn đau quặn thận do sỏi tắc ở bể thận hoặc niệu quản rất điển hình. Cơn đau dữ dội, xuất phát từ thắt lưng lan theo đường đi của niệu quản xuống phía dưới đến tận bẹn và vùng sinh dục, kèm theo đi tiểu buốt, nước tiểu đỏ, đau trướng bụng, có khi tiểu tiện ra máu .
Trường hợp có nhiễm khuẩn kèm theo, nước tiểu sẽ đục, có thể sốt cao rét run, báo hiệu viêm thận - bể thận. Bệnh có thể dẫn đến nhiều biến chứng nghiêm trọng, làm bệnh nhân suy thận nặng hoặc vô hiệu do sỏi làm tắc đường tiết niệu, nếu không được xử lý kịp thời dễ dẫn đến tử vong.
Điều trị
Hiện nay, người ta vẫn chữa nội khoa là chủ yếu. Vì có nhiều loại sỏi thận do những nguyên nhân rất phức tạp nên cách chữa và thuốc men đối với từng trường hợp sỏi cũng không giống nhau. Các phương pháp điều trị nội khoa (thuốc men, ăn uống…) đều nhằm giải quyết nguyên nhân và các cơ chế gây bệnh để hạn chế tái phát sỏi, giảm bớt các trường hợp phải phẫu thuật và biến chứng. Các phương pháp điều trị ngoại khoa chỉ được chỉ định trong các trường hợp cần thiết. Ngoài những phẫu thuật kinh điển vẫn được thực hiện, từ mấy thập niên nay đã xuất hiên những phương pháp mới như nội soi tiêt niệu, tán sỏi qua da bằng máy siêu âm, hoặc dùng máy tán sỏi ngoài cơ thể để tán sỏi trong thận giúp việc điều trị nhẹ nhàng và có kết quả hơn.
Trong công tác phòng bệnh và đề phòng sỏi tái phát, việc ăn uống rất quan trọng. Qua tổng kết người ta thấy sỏi thận dễ xảy ra ở những người uống nước quá ít, thiếu hoạt động thể lực, không tập thể dục thể thao.
Chế độ ăn hằng ngày là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sỏi thận, những người ăn nhiều bánh ngọt, các thức ăn nhiều lipit thường dễ bị sỏi thận hơn những người ăn nhiều rau quả. Cơ thể quá béo cũng dễ bị sỏi thận vì hocmon thay đổi thiên về hướng tiếp nhận lượng canxi nhiều hơn bình thường, do đó lượng canxi dư thừa trong cơ thể dễ bị kết tủa thành các tinh thể trong nước tiểu.
Cũng vì vậy, để đề phòng sỏi tái phát người ta khuyên bệnh nhân uống nhiều nước để lượng nước tiểu bài tiểt mỗi ngày ít nhất là 1,5 lít. Như vậy, nước tiểu luôn luôn ở mức bão hoà không có điều kiện hình thành sỏi. Ngoài ra bệnh nhân cần theo một chế độ ăn uống thích hợp do bác sĩ quy định để hạn chế các yếu tố nguy cơ gây bệnh. Thí dụ, đối với sỏi canxi oxalat là loại sỏi hay gặp nhất phải hạn chế các thức ăn chứa nhiều canxi và oxalat.
Nguồn: Thông tin KH & CN, số 3, 2005







