Rùa Hồ Gươm: rùa leloii
Chúng tôi cũng đã trao đổi về Rùa Hồ Gươm với các GS. Kraig Adler trường Đại học Cornell (Mỹ). Ông đã cung cấp cho tôi nhiều tài liệu quí về nghiên cứu rùa và đặc biệt nhiều bài liên quan đến loài Trionyx (Rafetus) swinhoei. Ông và Zhao Er-Mi là tác giả viết cuốn Lưỡng cư bò sát TrungQuốc(Herpetology of China, 1993). TS. Peter Andre Meylan trường Đại học Ecker (Mỹ) chuyên gia nghiên cứu rùa là tác giả cuốn Mối quan hệ về phát sinh chủng loại của các loài Rùa mai mềm - họ Ba ba(The phylogenetic Relationships of Softshelled Turtles – Family Trionychidae). Ông cũng đã gửi cho tôi phim dương bản về sọ loài Trionyx (Rafetus) swinhoechụp ở Bảo tàng Anh (British Museum). Qua trao đổi đã giúp ích rất nhiều cho công việc nghiên cứu của chúng tôi.
Tháng 10 – 1998 (20-26/10) tôi đã có dịp đi khảo sát loài rùa Trionyx (Rafetus) swinhoeiở Bảo tàng Lịch sử tự nhiên Thượng Hải Trung Quốc và trao đổi với GS. Zong Yu, nguyên Giám đốc và GS. Ma Jifan, Phó giám đốc phụ trách nghiên cứu khoa học, là các chuyên gia hàng đầu về lưỡng cư bò sát của Trung Quốc. Đây là hai trong ba tác giả đã viết cuốn Động vật chí Trung Quốc, phần về các loài rùa và cá sấu (các GS đã tặng tôi tập sách này), nhận thấy rằng Rùa Hồ Gươm hoàn toàn khác với loài rùa này.
Sau nhiều năm trao đổi, Giáo sư Kraig Adler, khuyên tôi nên viết bài mô tả loài Rùa Hồ Gươm như một loài rùa mới. Tháng 9 – 1999 tôi viết bài và gửi đến ông. Ông đã xem xét kỹ lưỡng và gửi đến 2 chuyên gia nghiên cứu rùa là Tiến sĩ William P.McCord và Patrick J.Baker. Cả 3 ông đều đồng ý Rùa Hồ Gươm – loài rùa mới cho khoa học và góp ý rất cụ thể, kể cả việc đặt tên khoa học. Các ông xếp Rùa Hồ Gươm vào giống Rafetusvà đề nghị đặt tên loài là hanoiensis hoặc hoankiemensisđể chỉ rõ tên địa phương của chủng quần rùa này cho tất cả mọi người. Sau khi nhận được ý kiến đóng góp của 3 chuyên gia trên về khoa học và bố cục, tôi đã viết và gửi lại cho Giáo sư Kraig Adler. Ông xem xét lại và chữa lại bảo thảo một lần nữa. Tháng 2-2000 tôi viết lại và đã gửi đến Tiến sĩ Anders G.J. Rhodin là chủ nhiệm tạp chí Bảo vệ Rùa và Sinh học(Chelonian Conservation and Biology). Giáo sư Kraig Adler cũng đã biên thư giới thiệu bài viết của tôi đến Tiến sĩ Anders G.J.Rhodin.
Tôi đã đặt tên khoa học Rùa Hồ Gươm là Rafetus leloii.
Rafetusnguồn gốc từ tên sông Raft của Ấn Độ, Leloii là Lê Lợi, tên ông vua Lê gắn liền với truyền thuyết Hoàn Kiếm, theo qui tắc viết tên khoa học chữ Lê Lợi là tên loài hai từ liền nhau, không viết hoa ký tự đầu và thêm một ký tự “i”.
Tôi cho rằng lấy tên Lê Lợi đặt cho rùa mang đậm ý nghĩa văn hoá lịch sử hơn, để các nhà nghiên cứu tìm hiểu thêm về lịch sử Việt Nam.
Ngày 27 – 7 – 2000 tôi đã nhận được thư của Tiến sĩ Peter C.H.Pritchard báo cho biết ông hy vọng bài mô tả rùa Hồ Gươm loài rùa mới của tôi và bài ông viết về loài rùa bùn Thượng Hải Trionyx (Rafetus) swinheoisớm xuất bản và ông đã xin được kinh phí và mời tôi cùng tham gia chuyến khảo sát loài rùa mai mềm khổng lồ ở các tỉnh miền Bắc Việt Nam vào cuối năm nay.
Như vậy bài mô tả Rùa Hồ Gươm – loài rùa mới đã được nhiều chuyên gia nghiên cứu rùa có uy tín lớn trên thế giới công nhận.
Nghiên cứu bảo tồn loài rúa quý Hồ Gươm là việc làm thiết thực cần thiết, chào mừng kỷ niệm 990 năm Thăng Long – Hà Nội.
______________
Trong Xưa và Nay tháng 5 – 1997 đã có đăng bài "Phải chăng rùa Hồ Gươm đã do vua Lê thả?". Một giả thiết đang được tiếp tục nghiên cứu.
Nguồn: Xưa và Nay, số 80, tháng 10 – 2000, trang 11