Rêu suối – món ăn đặc sắc của người Thái
Người Thái đã từ lâu coi rêu là món ăn ngon. Mùa rêu mọc, cả bản Thái cùng ra suối lấy về phơi khô ăn dần hoặc chế biến thành các món ăn truyền thống, đặc biệt trong các lễ hội, cưới hỏi, làm nhà mới… có 3 nhóm rêu chính: Rêu cui là loại rêu mọc trên đá, sợi màu xanh sẫm ở các dòng sông Nâng Mu, Nậm Ma, Nậm Bum, Nậm Mức, Nậm Po, Nậm Rốm…. là các phụ lưu của sông Đà ở Điện Biên. Rêu cay mọc rời rạc, xanh đậm ở Nậm Mã, Nậm Khoai, Nậm Thi, Nậm He… của sông Mã ở Điện Biên. Rêu tau là loại rêu mảng ở các ao hồ hoặc khe suối không bám chặt vào đá, khi lượm chỉ cần dùng thanh tre, gạt rêu vào giỏ.
Theo người già thì rêu suối gắn liền với câu chuyện tình bi thương của người Thái và sự tích về ngòi Thia, dòng suối lớn nhất của Mường Lò và Tây Bắc, lòng suối rộng đến 150m, nước quanh năm dào dạt.
Kìa nước ngòi Thia, lời yêu còn đó
Xống trụ xôn xao thêm vần thêm điệu
Nhìn núi Hoàng Liên mây trắng ngang trời…
Suối Giàng vẫn xanh xanh bầu trời Yên Bái.
Thia theo tiếng Thái có nghĩa là nước mắt, và ngòi Thia ngụ ý là nước mắt của cô gái Thái. Truyện kể rằng, xưa có một đôi trai gái yêu nhau, song cha mẹ không thuận, muốn gả cô cho một quan lang giàu có, hai người bèn trốn lên núi. Quan lang sai lính đuổi theo, giết chết chàng trai rồi chặt đầu ném xuống vực, thân xác của chàng đã biến thành muôn vàn viên sỏi đã. Cô gái đau đớn ngày đêm khóc lóc, nước mắt chảy thành dòng suối Thia, và rồi cũng trẫm mình biến thành rêu bám chặt lấy những viên đá sỏi.
Nhìn nuớc ngòi Thia rẽ làm 3 hướng, ngắm những đám rêu suối như mái tóc thanh xuân quấn chặt lấy những mỏm đá lởm chởm, ai nấy đều thương xót người trong cổ tích. Từ ý nghĩa câu chuyện, người Thái đã lấy rêu làm một món ăn chính trong lễ cưới hỏi thể hiện khát vọng của tuổi trẻ, tình yêu, sự thuỷ chung, may mắn và hạnh phúc. Rêu ở ngòi Thia do đó cũng được xem là thơm ngon nhất ở miền Tây Bắc.
Rêu không ai gieo trồng mà tự mọc, là món quà trời cho không bao giờ cạn kiệt. Chỉ cần giữ gìn nguồn nước cho thật sạch là rêu mọc rất tốt, nhất là ở sông Đà, sông Mã. Tuỳ từng đoạn suối mà rêu ngắn hay dài. Chúng bắt đầu mọc từ xuân hè và đạt độ dài nhất là khoảng cuối năm, khi trời giá lạnh. Mỗi đám rêu thường dài tới 2m, không khác mái tóc người phụ nữ. Rêu ngon là chỗ mọc dài thướt tha, sờ vào thấy mát mịn, êm ái, chỉ cần lấy tay hoặc vợt nhẹ nhàng lựa theo dòng nước là gạt được từ ngọn tới rễ,
Đi hái rêu là một nét đẹp văn hoá nơi đây. Người dân chọn ngày đẹp trời, lúa thóc đầy bồ, cả bản nghỉ nương rẫy họ rủ nhau tới các bãi rêu như đi trảy hội. Với tâm ý, rêu là của trời, hái được nhiều sẽ có nhiều tài lộc, hái được ít sẽ có ít tài lộc nên ai cũng đi và hái rất nhiều rêu tích trữ ăn cả năm. Vừa hái vừa cười nói rôm rả. Thậm chí nhiều người còn mang sẵn cả cơm, cá, rượu, thịt, sáng hái rêu, trưa nghỉ ăn cơm chiều lại hái tiếp. Không ít những buổi vui văn nghệ, những buổi hẹn hò, những chuyện tình chớm nở trong buổi hái rêu.
Trong sắc nắng vàng như trải lụa, óng ánh trên mặt nước suối dài, hình ảnh cô gái Thái hiện lên như tiên nữ trong bộ áo cỏmngắn, cài hàng cúc bướm bạc, khăn piêu, bộ xà tích bạc bên hông, da trắng má đỏ hồng, nghiêng người xoã tóc, lấy tay vớt rêu, rũ rêu thật duyên dáng. Các đám rêu xanh chập chờn như vừa muốn trốn đôi bàn tay người, vừa muốn quấy lấy đôi bàn chân.
Hái rêu là một công việc khá vất vả, và việc đập rêu loại bỏ tạp chất còn nhọc nhằn hơn. Các đám rêu ngậm nước nhiều khi nhấc ra khỏi mặt nước nặng trĩu tay, phải để từ từ cho rêu chảy hết nước rồi mới bỏ vào giỏ. Sau đó là công đoạn đập, để những cục rêu lên thớt hoặc một hòn đá tảng to có mặt phẳng và đập cho rêu bong các tạp chất. Phải đập sao cho khéo, không để rêu bị nát và làm mất chất dinh dưỡng và màu xanh tự nhiên. Rồi tỷ mỷ tẽ từng lớp rêu, nhặt sạn đá, rễ lá cây bị dính vào đó, và rửa thật sạch. Tất cả khoảng 3 lần đập và 1 lần rửa.
Rêu sạch được cắt thành đoạn, có thể chỉ nhỏ bằng lóng tay, hoặc dài vài chục cm tuỳ theo chiều dài và yêu cầu của món ăn. Rêu được chế biến thành nhiều món như rêu nướng, rêu nộm, canh rêu tươi… Bởi cách làm lâu, nhiều công sức, các món ăn từ rêu được phụ nữ Thái làm xen kẽ với các công việc gia đình. Việc chế biến rêu được xem là thước đo tình yêu, tình thương của phụ nữ Thái dành cho người yêu, người chồng, hoặc người cha.
Trong các món rêu, rêu nướng ( tau pho) làm món ăn đơn giản nhất. Rêu sạch cắt khúc, nêm các gia vị: gừng, sả, tỏi, ớt, lá chanh, thì là rồi bọc lá chuối, lá dong đã hơ lửa rồi túm lại, nướng trên than hoa hoặc vùi trong tro nóng khoảng một giờ đến khi gói rêu bốc mùi thơm nức. Cũng có thể cho rêu vào ống nứa mà nướng như cơm lam. Hoặc bọc lá kẹp que, nướng như nướng cá, khi chín lại rán lên chảo. Món rêu nướng ngon nhất khi nhâm nhi với chén rượu cất trong khung cảnh quây quần đầm ấm.
Nộm rêu ( tau chửng chụp) cũng là món ăn đơn giản. Rêu sạch đem cắt nhỏ bỏ vào chõ hấp chín, trộn muối, đường, gừng, rau thơm, hạt sen, nếu muốn cay cho thêm ớt hoặc hạt tiêu rừng mak khenđể làm món rêu giòn, ngọt, thơm.
Canh rêu tươi ( kinh tau) là món ăn công phu và sang trọng nhất. Rêu được nấu với nước xương lợn hầm hoặc nước luộc gà, với thịt nạc băm nêm gia vị và ăn nóng.
Ngoài rêu tươi ăn ngay, người Thái còn tích trữ rêu khô phơi gác bếp ăn dần, hoặc chỉ những dịp khách quý đến nhà mới đem ra thết đãi. Mỗi khi gia đình đông đủ, nhàn hạ, vợ chồng con cái lại muốn cùng thưởng thức món rêu hương vị tao nhã, đậm mùi quê hương.
Rêu có rất nhiều tác dụng như giúp hoạt huyết, giải độc, thanh nhiệt, chống cao huyết áp. Theo kinh nghiệm dân gian, ăn rêu chống được ngã nước, mụn nhọt, sốt rét, phong hàn. Người đi rừng khi uống nước mưa, nước suối, ăn rêu sống hoặc rêu nướng sẽ chịu được cái lạnh, chướng khí sơn lâm. Rêu chủ yếu là chất xơ còn có tác dụng giảm mỡ máu và là món ăn tốt cho những ai muốn ăn kiêng.
Không chỉ có người Thái mà người Mường, Tày, Nùng, Giao, Hmông… ở Tây Bắc cũng ăn rêu thường ngày và đều cho đây là một món ăn bổ dưỡng, mát lành.
Nghỉ hè hoặc du lãm, muốn thưởng thức món rêu suối hãy ghé qua các bản làng ở miền Tây Bắc.