Quỹ 1.000 tỷ đồng đổi mới công nghệ và hậu cơ chế “xin cho”
Thực trạng đó bắt nguồn từ cách đầu tư cho khoa học-công nghệ (KH-CN) mang nặng tính bao cấp, hành chính “xin-cho”, mà chúng ta đang đoạn tuyệt với nó nhằm “cởi trói” cho các tổ chức hoạt động KH-CN.
Nhân việc thành lập quỹ 1.000 tỷ hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, phóng viên “Trò chuyện Chủ nhật” có cuộc trao đổi với GS.TSKH Đặng Vũ Minh-Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam với chủ đề “chiếc bánh 1.000 tỷ và hậu cơ chế xin-cho”.
Phóng viên (PV):Thưa Giáo sư, với tâm thế của nhà khoa học đã trải qua nhiều cương vị từ công tác nghiên cứu, chủ nhiệm đề tài khoa học, lãnh đạo Viện và giờ là Chủ tịch Liên hiệp các hội KH&KT Việt Nam, cảm xúc của Giáo sư thế nào khi nghe tin anh “hai lúa” làm tầu bay, chế máy gặt, gần đây là xưởng cơ khí chế tầu ngầm?
GS Đặng Vũ Minh:Điều này nói lên sức sáng tạo của quần chúng là vô hạn, không phải chỉ riêng trên lĩnh vực KH-CN. Khi cuộc sống đặt ra những đòi hỏi thì sức sáng tạo nảy sinh. Cái đáng nói ở đây, là không hoặc chưa có tổ chức KH-CN nào chủ động nắm bắt cái đó, nâng bước cho những ý tưởng sáng tạo này, biến nó thành sản phẩm hoàn chỉnh có sức cạnh tranh. Nói cách khác, còn thiếu sự liên kết giữa nhà khoa học, nhà doanh nghiệp với các cá nhân có ý tưởng sáng tạo để tạo nên thành quả từ kết quả nghiên cứu đến sản phẩm hoàn chỉnh có thể nhìn thấy được. Nhưng tôi cũng muốn nói thêm, nếu một kỹ sư, một tổ chức KH-CN nào đó chế ra máy gặt, tầu bay là chuyện bình thường, còn ở đây do anh “hai lúa” làm nên dư luận đặc biệt quan tâm.
PV:Giáo sư có nhắc đến tình trạng nơi cần đầu tư thì không có tiền, hoặc đầu tư không đủ cho đến khi có sản phẩm cuối cùng được thị trường chấp nhận; nơi có tiền lại nghiên cứu các đề tài không hiệu quả. Như thế, phải chăng Quỹ phát triển KH-CN bằng 2% chi ngân sách Nhà nước tương đương 0,5% GDP đầu tư cho KH-CN hiện hành còn quá nhỏ, hay việc chi tiêu nó thiếu khôn ngoan, chưa minh bạch?
GS Đặng Vũ Minh:Cả hai vấn đề đều phải xem xét. Đối với nước nghèo như chúng ta, dành 2% nguồn chi ngân sách cho KH-CN đã là cố gắng. Nhưng đối với nhu cầu của KH-CN, thì số tiền này chưa phải là lớn. Vấn đề là chúng ta đừng chỉ trông vào nguồn ngân sách, mà phải tạo cơ chế khơi thông các nguồn lực của các thành phần kinh tế, của người dân đầu tư vào KH-CN. Ví dụ, chiếc mũ bảo hiểm rất đắt hàng khi Chính phủ có lệnh bắt buộc phải đội khi tham gia giao thông. Nhiều doanh nghiệp tư nhân sẵn sàng bỏ vốn ra nghiên cứu, sản xuất, Nhà nước chỉ cần có cơ chế cho họ đầu tư, không phải bỏ tiền, nhưng phải quản lý chặt chất lượng. Các sản phẩm khác cũng vậy, có cơ chế, họ thấy lợi là đầu tư ngay. Trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp hiện nay, thì phải xiết chặt quản lý, không thể để tình trạng đầu tư thiếu cân nhắc, vừa tốn tiền ngân sách, vừa không hiệu quả.
PV:Nói mãi quản lý Quỹ phát triển KH-CN vĩ mô nó cứ xa xa thế nào ấy. Xin Giáo sư trở lại với những câu hỏi đời sống đặt ra nóng bỏng như điệp khúc nông dân được mùa rớt giá mà không có cách nào bảo quản, chế biến nông sản chờ giá lên được; hay nạn làm thủy điện hại thủy lợi, môi trường và cuộc sống của hàng vạn hộ dân hạ lưu như ở Đắk Lắk, Đồng Nai... thì không biết con mắt của các nhà khoa học hướng đi đâu?
GS Đặng Vũ Minh:Cái này cũng xuất phát từ cách làm “đường ai nấy đi”, chưa gắn kết được giữa nhà nghiên cứu quy hoạch vùng (do Nhà nước phải đảm nhiệm), nhà khoa học, nhà doanh nghiệp... Với nông sản, lâu nay chúng ta hay nói tới liên kết bốn nhà nhưng chưa có chuyển biến rõ nét. Tôi cho rằng, từ khâu sản xuất, thu mua, chế biến, bảo quản nông sản cho nông dân (nhất là gạo, cà phê... hay vải thiều Bắc Giang, những mặt hàng có thế mạnh) thì phải có người “nhạc trưởng” cầm trịch. Nhạc trưởng đó đặt ra đề tài nghiên cứu, có đủ quyền năng huy động các đơn vị hữu trách tham gia, chỉ rõ người chịu trách nhiệm, người dân hưởng ứng, mới thành. Còn thủy điện, hiện chúng ta vẫn làm chủ yếu trên cơ sở đề xuất của nhà đầu tư, chưa tuân thủ nghiêm túc quy hoạch, thậm chí bỏ qua ý kiến của nhà khoa học. Hậu quả, buộc phải rà soát bỏ đi nhiều thủy điện lớn nhỏ. Trong đó, hai thủy điện 6 và 6A ở Đồng Nai cũng đang phải cân nhắc, bởi trước đó nhiều nhà khoa học cảnh báo nếu xây hai thủy điện này sẽ xâm hại nghiêm trọng hệ sinh thái vườn quốc gia. Đừng vội trách nhà khoa học, vì nhiều dự án khi duyệt cấp phép đầu tư họ có được tham gia đâu, hoặc có tham gia thì ở vòng sơ khảo thôi. Đến khi có hậu quả xảy ra, mời nhà khoa học thì đã muộn.
PV:Quỹ phát triển KH-CN trích từ ngân sách thì hạn hẹp, lại sử dụng chưa thật hiệu quả, bên cạnh đó còn các Chương trình phát triển sản phẩm quốc gia, Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao... đều cần tiền để đầu tư. Trong khi mối liên kết giữa nhà khoa học, các tổ chức nghiên cứu KH-CN và doanh nghiệp còn thiếu chặt chẽ, thì Giáo sư nhìn nhận thế nào về cách tạo dựng và sử dụng Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia bước đầu 1.000 tỷ mới ban hành?
GS Đặng Vũ Minh:Tôi rất mừng bởi những cơ quan có trách nhiệm đã nhìn ra vai trò to lớn của doanh nghiệp đối với KH-CN nói chung, trong đó có yêu cầu đổi mới công nghệ, thành lập quỹ này nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp có điều kiện đổi mới tiếp cận với công nghệ tiên tiến, ứng dụng vào sản xuất. Tuy nhiên, tôi băn khoăn về cơ chế sử dụng sao cho công khai, công bằng, minh bạch, hiệu quả. 1.000 tỷ đồng không thể nói là nhỏ, nhưng nếu không có tiêu chí lựa chọn lĩnh vực đầu tư rõ ràng, đầu tư dàn trải thì khó đem lại hiệu quả.
PV:Vậy theo Giáo sư, doanh nghiệp nào, dự án nào được hưởng hỗ trợ quỹ này cho công bằng, hiệu quả, cách thức hỗ trợ ra sao để đảm bảo quản lý và mở rộng được quỹ cho đổi mới công nghệ vốn nước ta đang rất cần?
GS Đặng Vũ Minh:Đối với khoa học ứng dụng, phải kiên quyết nghiệm thu đến kết quả cuối cùng. Tránh tình trạng kết quả cuối cùng không rõ ràng mà đề tài vẫn được nghiệm thu, thành ra sản phẩm đưa vào thực tế không có. Tôi ví dụ, Viện Địa chất thuộc Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam theo đuổi hơn 10 năm đề tài mô hình hồ nước treo ở Hà Giang. Đến năm 2012, hơn 20 hồ nước sạch mới được đưa vào sử dụng và rất có ý nghĩa với đời sống bà con vùng cao Mèo Vạc, Đồng Văn. Như thế đồng tiền đầu tư không bị lãng phí. Trái lại, một số đề tài không có kết quả cụ thể, hội đồng vẫn nghiệm thu, từ đó mới sinh ra chạy đề tài, chạy dự án nghiên cứu để hưởng lợi. Đây là câu trả lời, vì sao từ con dao bài, tấm vải, chiếc nồi, chiếc xe máy... chứ chưa nói ôtô, chúng ta chưa sản xuất được sản phẩm đạt chất lượng cao để coi đó là niềm tự hào riêng có của người Việt, sòng phẳng cạnh tranh với nước ngoài. Trường hợp không ra được sản phẩm cuối cùng như đã đăng ký, tổ chức, cá nhân nhận kinh phí nghiên cứu phải trả lại một tỷ lệ nào đó. Làm như vậy, tạo sự ràng buộc tránh được cơ chế xin-cho, hạn chế tiêu cực. Đối với đề tài nghiên cứu cơ bản, nếu công trình đó không được đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế có uy tín, thì không được nghiệm thu, điều đó rõ ràng.
PV:Ông Nguyễn Tăng Cường, Tổng Giám đốc Xí nghiệp cơ khí Quang Trung (Quảng Ninh) có nêu ý kiến, với lượng tiền 1.000 tỷ không phải lớn nếu hỗ trợ các doanh nghiệp đổi mới công nghệ nên yêu cầu đầu tiên là tiêu chí lựa chọn mục tiêu, lĩnh vực hỗ trợ phải rõ ràng, không dàn trải, kiểm soát kết quả đến sản phẩm cuối cùng và được thị trường chấp nhận. Vậy theo Giáo sư, cách nào thực hiện được yêu cầu quản lý quỹ như ý kiến nêu trên?
GS Đặng Vũ Minh:Phải công bố rộng rãi tiêu chuẩn, điều kiện được hưởng quỹ trên phương tiện truyền thông; thứ hai, khoán đến sản phẩm cuối cùng được thị trường chấp nhận; thứ ba, đãi ngộ xứng đáng phù hợp với đóng góp của cá nhân, doanh nghiệp tạo ra sản phẩm đó; và thứ tư là vinh danh công tâm, công bằng cho các tổ chức và cá nhân có đóng góp.
PV:Xin cảm ơn Giáo sư!








