Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 09/09/2009 17:19 (GMT+7)

Quốc sử quán nhà Nguyễn và việc chép sử

Ngoái nhìn cố sự

Nước ta, độc lập từ năm 939, sau chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền nhưng mãi đến năm 1272 (333 năm sau!), đời vua  Trần Thánh Tông (1258-1278), mới có được bộ sử đầu tiên,  một công trình của Hàn Lâm Viện Học sĩ kiêm Giám tu Quốc Sử Viện Lê Văn Hưu.   Đó là bộ Đại Việt Sử ký, chép từ đời Triệu Vũ đế (207 trước TL.) đến khi Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, chấm dứt Nhà Lý (1225).  Bộ sử gồm 30 quyển, rất được vua Trần Thánh Tông khen ngợi.

 Đời Hậu Lê (1428-1788), có nhiều công trình sử học quan trọng ra đời. Năm 1455, Phan Phù Tiên , người cầm đầu Quốc Tử Giám và Quốc Sử Viện, vâng lệnh vua Lê Nhân Tông, soạn Đại Việt Sử ký tục biên, gồm 10 quyển, chép tiếp lịch sử Đại Việt từ Trần Thái Tông (1225) đến khi quân Minh bị đánh đuổi về Tàu (1427). Sau đó, Ngô Sĩ Liên đã vâng lệnh vua Lê Thánh Tông, soạn Đại Việt Sử ký Toàn thư, hoàn thành năm 1479, gồm 15 quyển, chép từ họ Hồng Bàng đến khi Lê Thái Tổ lên ngôi (1428).  Công trình này về sau được nhóm Phạm Công Trứ vâng lệnh vua Lê Huyền Tông (1663) duyệt lại và tục biên; rồi đến nhóm Lê Hi vâng lệnh chúa Trịnh Căn  chép tiếp cho đến năm 1675, đời Lê Gia Tông, rồi khắc in năm 1697, cũng dưới tên Đại Việt Sử ký Toàn thư.  Có thể nói việc ghi sử liệu và chép sử từ đời Trần trở đi ngày càng được các vua lưu tâm và tổ chức qui củ.

Nay thử nhìn xem với tổ chức và phương tiện như thế nào và với phương pháp làm việc ra sao mà Quốc Sử Quán đã tạo được những công trình lớn lao như thế, đặc biệt với bộ Thực lục.

Tổ chức Quốc Sử Quán

Quốc Sử Quán là cơ quan chép sử của Nhà Nguyễn, do vua Minh Mạng lập ra nămMinh Mạng thứ 2 (1821)

Cầm đầu Quốc Sử Quán có Chánh, Phó Tổng Tài; giúp việc có các Tỏan tu, Biên tu,  Khảo hiệu, Đằng lụcvà  Thu chưởng.

Trong quan chế của Bộ Lại, không thấy ghi quan chế của Quốc Sử Quán, điều đó chứng tỏ cơ quan này không có cấp số nhân viên nhất định mà do vua bổ dụng theo nhu cầu công việc mỗi lúc.  Con số ghi trong Đại Nam Nhất Thống chí(Tập I, tr.56) là số nhân viên đời Tự Đức (4 Toản tu, 8 Biên tu, 4 Khảo hiệu, 6 Đằng lục, 6 Thu chưởng).

Tổng tàiPhó Tổng tài  là người chịu trách nhiệm tổng quát, nặng về tổ chức, quản lý, điều hành và đôn đốc. Họ thường là quan nhất, nhị phẩm triều đình, hàm Thượng thư (chánh nhị phẩm 2/1) trở lên, xuất thân khoa bảng.  Đây là một chức vụ kiêm nhiệm chứ không phải chuyên biệt, và không thường xuyên.  Ví dụ:  Tổng tài biên chép ĐNTLTiền biênlà Trương Đăng Quế và  Phó Tổng tài là Hà Duy Phiên.

Ông Trương Đăng Quế lúc bấy giờ là Văn minh điện Đại học sĩ(chánh nhất phẩm, 1/1),đang giữ chức Binh bộ Thượng thư (2/1), sung Cơ Mật Viện đại thần, Quản lý Khâm Thiên Giám, kiêm lãnh Quốc Tử Giám, kiêm quản Tàu chính ấn triện.

Ông Hà Duy Phiên bấy giờ là Lại bộ Thượng thư (2/1) kiêm quản Hình bộ ấn triện, kiêm lãnh Quốc Tử Giám sự vụ.

Toản tuBiên tu mới thực là người chấp bút viết nên Thực lục.

Tulà sửa ; toảnhay biênđều cùng có nghĩa là biên tập sách vở. Về nghĩa đen, không khác gì mấy, và để được vua chọn làm Toản tu hay Biên tu phải là người có trình độ văn học cao, khoa bảng xuất thân, có hàm Hàn Lâm Viện (HLV), có thừa khả năng viết lách. Điều khác biệt là người được cử làm Toản tu có phẩm trật cao hơn hoặc thâm niên hơn. 

Ví dụ : dưới quyền của Tổng tài Trương Đăng Quế, bộ ĐNTL Tiền biên, bộ sử đầu tiên của Nhà Nguyễn, hoàn tất vào năm Thiệu Trị thứ 3 (1843) với các Toản tusau đây: Hàn Lâm Viện (HLV) Trực học sĩ(chánh tam phẩm 3/1) Đỗ Quang , Thái bộc tự khanh(tòng tam phẩm 3/2) Tô Trân, Quang lộc tự khanh(3/2) Phạm Hồng Nghi, HLV Thị độc học sĩ(chánh tứ phẩm 4/1) Vũ Phạm Khải, Hồng lô tự khanh(4/1) Nguyễn Tường Vĩnh; và các Biên tu: HLV Thị độc học sĩ(4/1) Phạm Chi Hương, HLV Thị giảng học sĩ(tòng tứ phẩm 4/2) Nguyễn Thu, và các HLV Thị độc(chánh ngũ phẩm 5/1) Phạm Văn Nghị, Hoàng Trọng Từ, Dương Duy Thanh, tất cả đều là quan văn, từ ngũ phẩm trở lên. (Xin nhớ rằng Tri huyện mới chỉ là tòng lục phẩm, 6/2).

Các dịch giả Cương mục chú thích rằng Toản tu là “ Viên quan chịu trách nhiệm khởi thảo nội dung sách cho có mạch lạc.( Cương mục I,  chú thích số 5, tr.18).

Khi Quốc Sử Quán trình báo bộ Đại Nam Thực Lục Tiền biênđã soạn xong, xin phép khắc in, vua Thiệu Trị đã ra lệnh “… giao các viên Toản tu kiểm điểm khoản thức chữ viết, mọi việc cho chu đáo ổn thỏa…”( Thực lục I, tr.8). 

Như vậy, trong việc biên tập, trách nhiệm của các Toản tu cao hơn, trong đó có việc hoạch định đường lối  công việc và kiểm soát cả nội dung lẫn hình thức.

Về chức Khảo hiệu các dịch giả Cương mục giải thích là “Viên quan chịu trách nhiệm  tham khảo các sách, hiệu đính lại những chỗ sai lầm”(Sđd., tr.18). Giải thích này e không được chính xác.  Các khảo hiệu tuy cũng là quan có hàm Hàn Lâm Viện, nghĩa là cũng khoa bảng xuất thân, nhưng đều là cấp nhỏ (HLV Biên tu, 7/1; HLV Kiểm thảo 7/2), nghĩa là thấp hơn  Toản tu và Biên tu nhiều lắm. Quan cấp nhỏ làm sao dám hiệu đính những chỗ sai lầmdo các quan cấp trên viết ra?  Điều hợp lý có thể hiểu là: Khảo hiệu giữ nhiệm vụ giúp tra cứu sách vở, tài liệu theo yêu cầu của các quan Toản tu và Biên tu, soát lại các bản văn được các Đằng lụcchép lại từ bản thào cho đúng với nguyên bản,  v.v.

Đằng lục  là những người giữ việc sao chép lại các  bản thảo theo đúng qui cách để trở thành bản văn chính thức trình duyệt cấp trên và sau khi được chấp thuận sẽ đưa đi khắc in. Các Đằng lục thường là người viết chữ đẹp, họ là những Bát, Cửu phẩm Bút thiếp thức.

Thu chưởnglà những người giữ việc thu gom, sắp xếp và gìn giữ các bản thảo, các bản biên tập. Đó là các Bút thiếp thức hoặc các Bát, Cửu phẩm Thư lại.

Nhân viên Quốc Sử Quán còn có một số thợ khắc bản gỗ và thợ in.

Năm Minh Mạng thứ sáu (1826) mới dựng cơ sở chính thức tại phường Phú Văn (sau đổi làm Trung Hậu), gần Ngã tư Anh Danh, cạnh Hộ Thành, trên đường Ngô Sĩ Liên ngày nay .  Ban đầu chỉ có một tòa nhà chính ở giữa, rồi qua các đời Thiệu Trị và Tự Đức mới xây thêm hai dãy bên phải và bên trái và khu tồn trữ các bản khắc gỗ.  Trong khu vực Quốc Sử Quán có cái giếng nổi tiếng nước trong và pha trà rất ngon, tục truyền là giếng cổ của làng Diễn Phái xưa.

Số lượng các bản khắc rất lớn, nhưng chiến tranh đã gây thất thoát rất đáng kể.  Sau năm 1947, chính quyền đã cho thu thập và tạm thời tàng trữ tại hiên sau của Viện Văn Hóa Trung Việt, tức Bảo tàng Khải Định, tức Bảo tàng Mỹ thuật Cung đình ngày nay, rồi sau đó chuyển lên Đà Lạt.  Người ta dùng gỗ cây thị để khắc bản in vì thớ gỗ mịn, không bị cong vênh.

Nguồn sử liệu

Tùy mục đích và nội dung công trình biên tâp mà Quốc Sử Quán sử dụng những nguồn sử liệu khác nhau. Chẳng hạn, sử liệu để viết Khâm định Việt sử Thông giám Cương mụckhông giống sử liệu dùng cho Đại Nam Thực lục. Cương mục là một bộ thông sử, chép lịch sử nước ta từ đời Hùng Vương cho đến  đời Lê Chiêu Thống (1789), và ban biên tập như vua Tự Đức đã chỉ thị “… có nhiệm vụ  đem sử biên niên các đời  trước tham khảo với các truyện ký linh tinh của các nhà trứ tác, điều gì trong sử biên niên còn sót thì bổ thêm vào, điều gì sai lầm thì đính chính lại; việc nào nên chép vào sách hay nên bỏ đi, việc nào nên khen hay nên chê, đều theo đúng như phương pháp  chép sử Cương mục của Tử Đương, chép thành toàn bộ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục.” ( Cương mục I, tr.18,19)

Nguồn sử liệu đó vốn phổ thông, quen thuộc xưa nay.

 Chỉ riêng với Thực lụcthì khác, vì   Thực lụclà bộ sử chính thức của riêng triều Nguyễn. Như tên gọi, bộ sử là thực lục, nghĩa là chép việc thật, có sao chép vậy. Với thể loại thực lụcnày mức độ chính xác rất cao vì người chép sử phải căn cứ trên những tài liệu chính thức, tài liệu nguyên thủy, tài liệu ban đầu để biên tập nên tác phẩmchứ không phải trích thuật từ những tác phẩm khác, như trường hợp của Cương mục hay các bộ thông sử khác.

Quốc Sử Quán đã sử dụng sử liệu từ các nguồn sau đây để xây dựng Thực lục, xếp theo thứ tự quan trọng nhiều ít:

-Châu bản;

-Bản ghi chép của chức Khởi cư chú;

-Các nguồn tài liệu khác.

1/ Châu bản:Nghĩa đen là bản (chữ) son.  Châu bản là những bản tấu sớ đã được vua  châu điểmhoặc châu phê, châu khuyênhay châu mạt

Châu điểm, châu phê, châu khuyên, châu mạt là những động tác của vua bày tỏ ý chấp thuận hay bác khước, hoặc ra một quyết định, v.v. sau khi xem một bản tâu trình ( sớ, biểu, phiến)  của các quan về một vấn đề gì đó.

-Bản tâu nào gởi lên vua cũng phải bắt đầu bằng một chữ Tấu. Nếu hoàn toàn đồng ý, chấp thuận đề nghị được tâu trình, vua chỉ cần chấm một chấm son trên đầu chữ Tấu.  Như thế gọi là châu điểm .

Ví dụ: Bộ Hộ tâu nói: “Phu ở dịch trạm các địa phương đều được tha miễn thuế thân, duy sáu tỉnh ở Nam kỳ và ba tỉnh Sơn Tây, Thái Nguyên, Lạng Sơn ở Bắc kỳ có nơi miễn cả, có nơi miễn một nửa, lại có nơi phải nộp theo lệ, rất không giống nhau.  Xét ra phu trạm ngày đêm chạy trạm chuyển đệ, cùng làkhónhọc cả, há nên nơi này nơi nọ khác nhau, xin sai các quan tỉnh xem xét.  Trạm nào  công việc hơi ít mà số phu nhiều thì liệu bớt đi, trạm nào công việc nhiều và tuy [số phu] hơi ít, nhưng số phu ít thì để lại, rồi chiếu số được giảm  cho về làng chịu sai dịch, còn số để lại, thuế thân đếu được miễn.

Vua y lời tâu ấy( Thực lục V, tr. 421) .   

Sử chỉ ghi vắn tắt mấy chữ  như đã nhấn mạnh ở trên nhưng qua đó ta có thể hiểu rằng với bản tâu này, vua chấp thuận hoàn toàn đề nghị của bộ Hộ bằng một chấm son ở chữ Tấu (châu điểm).  Căn cứ vào quyết định này, Nội Các sẽ sao  lục  bản tâu với các khoản đề nghị được chấp thuận, đóng ấn, rối giao cho Bộ Hộ thi hành. Bản chính, bản có châu điểm, được lưu tại Nội Các làm sử liệu cho Thực lục về sau.

 -Ngược lại, nếu vua có ý kiến khác không chấp thuận hoặc chỉ chấp thuận một phần nào, hoặc cần cấp dưới bổ sung tin tức hay ý kiến, hoặc khen thưởng hay  khiển trách v.v. thì vua sẽ phê vào bản tấu sớ.  Đó là châu phê. Nghĩa là phê bằng bút son. Tổng đốc Thân Trọng Huề, trong một hồi ký về vua Tự Đức, đã từng ghi nhận rằng: “Phiến sớ các nơi đều gởi về nội các. Nội các để trong tráp tấu sự, đưa cho giám, giám đưa cho nữ quan dâng lên ngài. Ngài xem rồi giao nội các. Nội các giữ bản chính có châu điểm, châu phê, lục bản phó ra cho các bộ nha.

“Nay xem các nguyên bản trong Các thì thấy có nhiều tờ phiến ngài phê dài hơn cả các quan tâu.  Chữ đã tốt mà văn lại hay, ai cũng kinh cái tài của ngài.” (Trần Trọng Kim, II, tr.238)

Thực lụccho ta biết rất nhiều trường hợp điển hình về châu phê khá thú vị. Ví dụ: Năm 1830, triều đình tổ chức lễ mừng sinh nhật thứ 40 (Tứ tuần đại khánh) của vua Minh Mạng, sắp đến ngày lễ, trời trở chứng mưa to mấy đêm không tạnh, ai cũng lo. Đến ngày lễ chính thức, trời bỗng tạnh ráo, nắng đẹp, mọi người đều vui mừng. Nhân dịp này…

“Thị lang Nội các là Phan Thanh Giản và Trương Đăng Quế  dâng bài tụng đại khánh, thuật lại các công việc tự lúc vua lên ngôi đến nay, siêng lo chính trị làm gốc để được phúc hưởng thọ.

Vua phê: “Bọn ngươi không lo cố gắng làm hết chức phận, cứ ngày thêm lầm lỗi, nay lại làm bài văn vô dụng này đối với lầm lỗi có ích gì? Trẫm có thích nịnh ngoài mặt đâu? Vậy ném trả và truyền chỉ quở mắng”. ( Thực lục III, tr.39)

Với lời phê này, ta biết vua Minh Mạng là người có đầu óc thực tế, sáng suốt, chuộng hiệu quả và không ưa hư danh, không dễ nịnh; đồng thời cũng biết rằng về mặt hành chánh, hai ông Trương Đăng Quế và Phan Thanh Giản thế nào cũng nhận được giấy khiển trách do  Nội Các tống đạt khi họ chấp hành lời phê này.

- Châu khuyên nghĩa là vẽ một vòng tròn nhỏ bằng son.

Khi ở dưới dâng lên một danh sách về người, việc, hoặc vật phẩm để vua lựa chọn, hễ vua chấp thuận người nào, việc gì, phẩm vật nào thì vua dùng bút son khuyên một vòng tròn nhỏ trước tên người, việc hay vật đó. 

Ví dụ 1 : Để chuẩn bị cho lễ Phất thức (lễ lau chùi ấn tín của vua trước khi khóa cất để ăn Tết), Nội Các lập danh sách các quan từ nhị phẩm trở lên và các Tôn tước (người Hoàng tộc được phong tước), dâng vua lựa chọn. Vua chấp thuận người nào thì châu khuyên trước tên người đó.

Ví dụ 2 : Địa phương dâng tiến các phẩm vật vào các dịp lễ mừng với danh sách liệt kê các phẩm vật và số lượng, vua muốn thu nhận món nào thì châu khuyên trước tên món đó.

- Mạt nghĩa là bôi, xóa, gạch bỏ. Khi vua không đồng ý người nào hoặc việc gì được nêu ra trong các bản tâu thì vua dùng bút son quẹt trên tên người đó hoặc điều đó.  Ấy là châu mạt .

Cùng nghĩa với châu mạt là châu cải  (cải: đổi).

Một ví dụ về châu khuyên, châu mạt và châu cải:

“Ngay hôm Phụng Hóa Công Bửu Đảo nhập cung (16/5/1916), các quan Nội Các XE "Nội Các"  đã lo tìm những chữ có ý nghĩa tốt, liệt kê ra và dâng lên để tân quân lựa chọn làm niên hiệu của triều đại mới.  Một bản sao cũng được gởi đến Hội đồng Thượng thư để các vị ấy xem xét.   Ngay hôm đó Nội Các báo cho Hội đồng Thượng thư biết rằng trong danh sách dâng lên, hai chữ Khải Trung đã được chiếu cố, nhưng tân quân dùng bút son khoanh tròn chử Khải[châu khuyên] , gạch bỏ chữ Trung[châu mạt] , và thay vào đó bằng chữ Định[châu cải] .  Như vậy, ý của tân quân là muốn chọn hai chữ Khải Định, có nghĩa là khởi đầu một thời thanh bình và ổn địnhđể làm niên hiệu.”( Võ Hương-An,  tr.26)

Ngoại trừ châu điểm, trên một bản tâu có thể có cả  châu phê, châu khuyên và châu mạt. Cũng được kể vào châu bản là những chiếu, chỉ, dụ, và các văn kiện khác phát xuất từ văn phòng của vua.

Châu bảnlà nguồn sử liệu chính thức và căn bản nhất mà  Quốc Sử Quán  dùng để chép Thực lục.

Bản văn mang bút tích bằng son của vua là bản gốc, được lưu trử tại Nội Các. Nội Các sẽ căn cứ vào bản gốc để sao lục các khoản đã được vua quyết định, đóng ấn Nội Các, rồi giao cho quan chức hoặc các cơ quan liên hệ thi hành. 

Giáo sư Trần Kinh Hòa, nguyên Giáo sư Đại học Văn khoa Huế, nguyên Tổng thư ký Ủy ban Phiên dịch Sử liệu của Đại học Huế (trước 1975), người có công đầu trong việc chỉnh đốn châu bản triều Nguyễn còn sót lại sau  1946, đã có nhận xét về nguồn sử liệu này như sau:  

“…trừ một số nhân viên Quốc sử quán hoặc  Nội Các triều Nguyễn, ngoài ra, đối với các sử gia thế giới, Châu bản triều Nguyễn vẫn là một bộ “bí tịch” không thể dễ dàng tham khảo được.

“Tiếc rằng những sử liệu quí báu này chưa có dịp làm đối tượng nghiên cứu của các sử gia tân tiến theo phương pháp khoa học và có hệ thống thì một số lớn của tài liệu ấy  đã bị hư nát và mất tich trong thời kỳ tản cư từ nam  1945 cho đến năm 1955. Tuy vậy, giá trị châu bản đối với sự nghiên cứu của lịch sử cận đại, nhất là lịch sử triều đại nhà Nguyễn vẫn là một kho sử liệu cho các nhà sử học, mặc dầu số châu bản hiện còn, có lẽ không bằng 1/5 của ngày trước”( Trần Kinh Hòa, tr.167-168)

Tất cả các số sách giấy tờ, mệnh lệnh, dụ chỉ, thư từ giao dịch nước ngoài, sổ sách v.v…của triều đại đương thời đều được Nội Các lưu trữ cẩn thận. Trong Nội Các,  có bộ phận  lúc đầu gọi là Biểu Bộ Tào, sau vua Thiệu Trị đổi làm  Bản Chương Sở, chuyên lo về việc  này.  Sở này lại có ba Chương, là  Lại Hộ Chương, Lễ Binh ChươngHình Công Chương.

-Lại Hộ Chươnggìn giữ tất cả văn kiện, sổ sách thuộc Bộ Lại, Bộ Hộ, và các cơ quan khác như Cơ Mật Viện, Thị Vệ Xứ, Đô Sát Viện, Thông Chính Ty, Hỏa Dược Sung Pháo Khố, Bưu Chính và các Dinh, Vệ tại Kinh thành.

-Lễ Binh Chươnggìn giữ tất cả văn kiện, sổ sách thuộc Bộ Lễ và Bộ Binh, cùng các cơ quan khác như Tôn Nhơn Phủ, Nội Vụ Phủ, Hàn Lâm Viện, Khâm Thiên Giám, Quốc Tử Giám, Thủ Hộ Sứ, Điển Nghi Ty, Thái Thường Tự, Quang Lộc Tự, Tào Chính và Thừa Thiên Phủ.

-Hình Công Chươnggìn giữ tất cả văn kiện, sổ sách, thuộc Bộ Hình, Bộ Công, cùng các cơ quan khác như Vũ Khố, Vũ Khố Đốc Công,  Nội Vụ Đốc Công, Mộc Thương Đốc Công, Đại Lý Tự và Tam Pháp Ty.

2/ Bản ghi chép của chức Khởi cư chú. 

Đang khi còn lo đánh nhau túi bụi với Tây Sơn, lấn từng tấc đất  để giành lại cơ nghiệp xưa của tổ tiên, Nguyễn Vương – tức vua Gia Long sau này – mặc dẫu “chăm làm mọi việc, suốt ngày không lúc nào rổi” nhưng lại có một quyết định ảnh hưởng tới việc chép sử về sau, ấy là “Sai Thị thư viện sung chức khởi cư chú, phàm vua làm công việc gì đều chép hết”( Thực lục I, tr.257)  

Thị Thư Viện  là  bộ phận văn phòng của vua. Khởi cư chú là  chức năng thư ký tạm thời, có thể giao cho một quan chức nào đó có khả năng đảm nhận trong một phiên trực ban để làm việc ghi chép đúng phép. Một loại tốc ký viên cao cấp.

Năm Minh Mạng thứ 2 (1821) vua đổi Thị Thư Viện làm Văn Thư Phòng.  Năm Minh Mạng thứ 11 (1830) vua đổi Văn Thư Phòng làm Nội Các và tổ chức lại một cách chặt chẽ hơn.  Trong Nội Các có bộ phận gọi Tòa Ký chú, nhiệm vụ là “phàm khi vua ngự ở điện để nghe chính sự, khi vua triều hội, khi vua đi chơi, đều phải kính cẩn ghi chép những lời vua nói lúc đi lúc ngồi, cùng chương sớ của trăm quan bàn tâu cũng đều ghi chép cả”( Hội điển VIII, tr.22)

Năm Minh Mạng thứ 13 (1832), khi đưa Viện Đô Sát -- thành hình từ đầu đời Gia Long --  vào hoạt động thực tế, nghĩa là đặt quan chức, rồi xây dựng trụ sở v.v ,vua giao việc khởi cư chú này cho viện: 

“…gặp ngày vua ngự ở điện nghe chính sự, thì hai người thuộc viện Đô sát[Khoa đạo] đứng ở hai bên tả hữu trên điện, sung làm khởi cư chú, phàm vua có nói năng đi đứng gì  đều kính cẩn ghi chép; nếu vua có đi chơi thì theo hầu cũng ghi chép như thế. Những viên nào ghi chép  thì phải ký tên vào cuối giấy, cứ hết tháng  đem nộp các bản ghi chép suốt tháng để đường quan ở viện[cấp trên tại viện] sửa chữa, viết lại cẩn thận, đóng thành tập rồi cùng ký tên, đóng ấn của viện, giao cho Quốc tử giám  thu giữ.Lại phàm 6 bộ, Nội các và các nha môn có tâu việc gì thì một người thuộc viên của viện đều được theo ban dự nghe, theo từng việc ghi chép, để phòng khi kiểm soát” ( Hội điển, VIII, tr.89) . 

Danh xưng “thuộc viên”nói ở đây chính là các Khoa đạo, thành phần nòng cốt của Viện Đô Sát. Trong tổ chức của Viện, có Cấp sự trung các khoa, trật chánh ngũ phẩm (5/1), phụ trách giám sát  các bộ và cơ quan trung ương, và Giám sát Ngự sử các đạo(2 tỉnh làm một đạo), cũng ở trật chánh ngũ phẩm, giám sát công việc của các đạo, tức các địa phương; người ta thường gọi chung hai hạng viên chức này là Khoa đạo.

Năm Minh Mạng thứ 20 (1839) đại thần Viện Cơ Mật là Trương Đăng Quế, sau khi nêu rõ vai trò quan trọng của việc khởi cư chú  đối với công cuộc chép sử của đời sau, đã đề nghị một qui thức làm việc của chức Khởi cư chú khá chặt chẽ và được vua chuẩn y thi hành, như sau:

-Khi vua ngự điện để nghe các quan chầu hầu tâu việc, thì Khoa đạo sung chức Khởi cư chú có nhiệm vụ phải ghi lại tất cả, một cách đầy đủ và trung thực,  từ nội dung tâu trình đến cử chỉ, lời nói, huấn thị của vua.

-Khi vua ngự giá đi chơi, đi tuần du, cũng làm như thế.

-Chức Khởi cứ chú phải ghi tên ở cuối bản ghi chép, trình cho cấp trên trong Viện Đô Sát nhuận sắc chữ nghĩa, rồi giao cho trực thần (quan lớn  trưởng ban trực hôm đó) duyệt lại. Trực thần có thể bổ sung thiếu sót hoặc sửa đổi sai lầm nhưng phải  đóng ấn quan phòng (ấn chức vụ) làm bằng để chịu trách nhiệm việc mình làm.

-Trong trường hợp vua triệu đình thần (quan lớn) vào gặp riêng để làm việc, Khoa đạo  (là quan cấp nhỏ) không được phép dự thì việc ghi chép do quan Nội Các đảm nhận.  Bản ghi chép sau đó giao cho Khoa đạo trực ban viết lại tinh tường, cấp trên ở Viện Đô Sát và trực thần duyệt lại, đóng ấn.

-Các bản ghi chép này được tập trung đóng thành tập giao cho Quốc Tử Giám lưu giữ, sau chuyển cho Quốc Sử Quán  làm tài liệu chép sử ( Hội điểnVIII, tr.92.  Thực lục V, tr.480-481).

Xem thế thì có thể thấy được rằng bản ghi chép của chức Khởi cư chú là một biên bản về buổi làm việc của vua và các quan, một sử liệu sống động và và rất thực. 

Đoạn sử sau đây có thể cho ta biết các nhà chép sử của Quốc Sử Quán đã lấy tài liệu từ  một bản ghi chép của chức Khởi cư chú:

“Ngày Bính Dần , vua[Minh Mạng] đi chơi ở cửa biển Thuận An, lên lầu Lưỡng Kiêm ngoạn cảnh (…). Lại lên lầu Quan Hải  xem thủy sư thao diễn, bắn súng lớn.  Ai bắn trúng thì thưởng tiền Phi long bằng bạc.

“Vua nhân bảo [Thượng thư] bộ Binh  là Trương Đăng Quế rằng: phép thủy chiến trong khi lâm trận, bắn nhau với giặc có ba điều cốt yếu:  một là bắn vào bánh lái thuyền;  hai là bắn vào cột buồm; ba là bắn vào tướng trong thuyền. Tại sao thế? Là vì tay lái dùng để khiến thuyền, không có lái thì thuyền không đứng vững, không bị nghiêng chìm cũng ít lắm, cho nên bắn trúng tay lái thuyền là hơn nhất.  Thuyền có cột buồm mới đi được, không có cột buồm thì thuyền không đi được.  Nhưng thuyền có 3 cột buồm, không như tay lái chỉ có một cái mà thôi. Cho nên bắn trúng cột buồm là thứ hai. Tướng là người hiệu lệnh trong một thuyền, mất tướng thì lính không có người thống thuộc, cho nên bắn trúng tướng là thứ ba. Nếu bắn trúng thân thuyền  thì địch bị hại rất nhỏ, đó là hạng kém. Ngươi nên đem ý ấy truyền dụ cho Lê Văn Đức[người chỉ huy thủy sư] bảo lính thủy tập bắn đều biết. Ngày hôm sau vua trở về.”( Thực lục V, tr.688)

Quả thật, nếu không có chức Khởi cư chú thì sử đã thiếu đi nhiều chi tiết hữu ích giúp đời sau hiểu rõ hơn về một thời của quá khứ.

3/ Các nguồn sử liệu khác:

Cùng với hai nguồn sử liệu chính vừa nói, Quốc Sử Quán còn sở hữu  Ngọc điệpTôn phảvà các sách sử tài liệu khác do chính Quốc Sử Quán suu tập hoặc do vua xuống chiếu tìm tòi thu thập khắp các địa phương trong nước.

Ngọc điệplà phả hệ của dòng  làm vua.

Công việc biên soạn ngọc điệp khởi sự vào năm Minh Mạng thứ 2 (1821), lúc đầu giao cho Bộ Lễ, nhưng sau đó thì giao cho một ban  biên tập gồm có một Chánh Tổng tài biên tu ngọc điệpdo một quan văn chánh nhị phẩm đảm nhận, một Phó Tổng tài là quan tòng nhị phẩm, người Tôn thất ; giúp việc có 2 Toản tu và 2 Đằng lục, đều là quan của Nội Các, nơi làm việc là Hữu Đãi Viện.  Khi biên tập xong, ngọc điệp sẽ được chép làm 2  bản.  Bản chính, sau khi dâng lên vua trong một buổi lễ long trọng, sẽ được cất trong tủ màu vàng trong điện Càn Thành ; bản phó sẽ được cung kính rước về tàng trữ trong tủ màu vàng của Quốc Sử Quánđể làm tài liệu chép sử .

Tôn phảlà tộc phả của Nhà Nguyễn (dòng không làm vua).

Cầm đầu việc biên tu tôn phả là một Tổng Toản tu biên tu tôn phả(quan văn, 4/1), có một Toản tu và hai Đằng lục giúp việc, lấy Quốc Sử Quán làm nơi làm việc.  Tôn phả làm xong, được chép làm 2 bản; bản chính dâng lên vua xem, xong lưu trữ tại Quốc Sử Quán, còn bản phó thì để tại Tôn Nhơn Phủ (Hội điển I, tr.88 ).

Về các nguồn tài liệu không chính thức khác – như tích cũ do người già còn nhớ được, sách xưa còn sót lại qua các cơn binh lửa, sách do các nhà văn học trong dân gian trước tác – thì đời vua nào cũng có “ hỏi tìm điển cũ” hoặc  “ xuống chiếu tìm sách vở sót”  và “ Phàm  các địa phương trong ngoài có dâng sách vở gì, liền giao sang Sử quán kê cứu để giúp tham đính”( Thực lục I, tr.7-8). 

Ngoài các nguồn sử liệu Việt Nam đã nói, các sách, sử của Trung Quốc cũng là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết để làm việc.  Chẳng hạn tham khảo Khâm định Vạn niên thưđể thống nhất cách chép niên hiệu hoặc tham khảo lối làm sử Thực lục của các triều đại Trung Quốc để viết ĐNTLhay lối chép sử của Chu Hy (1130-1200) đời Tống để viết Cương mục.

Phương pháp làm việcvà tiến trình hoàn thành một bộ sử

Đời vua sau cho lệnh chép thực lục của đời vua trước.

Năm Minh Mạng thứ 2 (1821), vua cho mở Quốc Sử Quán và ra lệnh chép sử 9 đời chúa Nguyễn và sử đời Gia Long.  Đó là bộ Đại Nam Thực lục Tiền biên, hoàn tất năm 1844, đời Thiệu Trị; và bộ Đại Nam Thực lục Chánh biên Đệ nhất kỷ, chép lịch sử đời Gia Long, hoàn tất năm 1848, đời Tự Đức.

Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), vua ra lệnh chép sử đời Minh Mạng ( ĐNTL Chánh biên, Đệ nhị kỷ).

Năm Tự Đức thứ 30 (1877), vua ra lệnh chép sử đời Thiệu Trị ( ĐNTL Chánh biên, Đệ tam kỷ).

Cứ thế tiếp tục cho đến kỷ thứ 6, kỳ cuối cùng của bộ ĐNTL Chánh biên, chép sử đời Hàm Nghi và Đồng Khánh.

Như đã nói, hai nguồn tài liệu căn bản của Thực lục là các châu bản và các bản ghi chép việc triều chính của Khởi cư chú.  Nguồn tài liệu trước do Nội Các giữ; nguồn tài liệu sau do Quốc Tử Giám giữ.  Khi vua ra lệnh chép sử đời vua nào thì cả hai cơ quan này phải giao hết tài liệu liên hệ của đời vua đó cho Quốc Sử Quán.  Theo lời của thân phụ tôi kể lại, trong thời gian châu bản còn được lưu giữ tại Nội Các, các vua mới kế vị thường đến lầu Tụ Khuê cạnh Nội Các, nơi lưu trữ văn khố, tìm đọc các châu bản để nghiên cứu, học hỏi cách giải quyết vấn đề của tiên đế.

Đừng nghĩ rằng chỉ từ khi làm quen với văn hóa phương Tây ta mới học được phương pháp làm việc khoa học. Thực ra, tinh thần khoa học là làm việc có nguyên tắc, hợp lý, có hệ thống, mạch lạc và hiệu quả. Với tinh thần này, các sử quan tại  Quốc Sử Quán có thừa. Điều này thể hiện ở phần Phàm lệmở đầu mỗi công trình.    

Phàm lệ chính là nguyên tắc làm việc của ban biên tập, giúp từ trên xuống dưới ai nấy đều biết rõ những gì phải theo để việc biên tập có tính nhất quán, tránh được khuyết điểm  người viết theo cách này, người trình bày theo cách khác, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược. 

Mỗi bộ sách có một nội dung khác nhau nên Phàm lệ cũng dài ngắn khác nhau. Tuy nhiên, những điểm căn bản thì vẫn như nhau.  Nói chung, các phàm lệ đều giống nhau ở những điểm sau: 

-xác định mốc thời gian của công trình (chép từ năm nào đến năm nào);

-cách gọi chính danh;

-kiêng húy;

-chép cái gì, bỏ cái gì, lý do tại sao.

Xin lấy Phàm lệ của ĐNTL Tiền biênlàm thí dụ điển hình:

“Thời quốc sơ[thời các chúa Nguyễn], từ Túc tông Hiếu Ninh Hoàng đế[chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ] về trước, xưng là Công; Từ Thế tông Hiếu Võ Hoàng đế[Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát] về sau, xưng là Vương;

“Ngày nay theo đế chế xưng là Thượng.

“Thời quốc sơ, niên kỷ dùng niên hiệu nhà Lê.  Nay theo sách Khâm định Vạn niên thư, đều cứ năm sau năm nối ngôi mà chép làm năm đầu. Còn niên hiệu Nhà Lê, nhà Minh, nhà Thanh thì chia ra chua ở dưới, để chỉ rõ thế đại và thống kỷ.

“Năm lên nối ngôi mà chưa có kỷ nguyên thì những tháng còn lại của năm ấy, có làm chính sự gì, cứ theo tháng mà chép ở đầu bản kỷ.

“Chép việc thì lấy tháng theo mùa, mùa theo năm. Nếu không có việc gì đáng chép , thì bỏ khuyết mùa, tháng mà chép năm; phàm việc thì không chép ngày, duy có việc lớn thì chép cẩn thận theo ngày.

“Thời quốc sơ mở mang bờ cõi, từ Phú Yên vào Nam dần dần tháp nhập bản đồ.  Nay phàm dùng binh tiến lấy được nơi nào, lập dinh phủ nơi nào, thì chép sơ[buổi đầu] để ghi là việc khi mới bắt đầu.

“Trong các kỷ, ngày sinh của liệt thánh hoàng đế đều ghi cả, là để tôn hệ thống nhà vua.

“Vua và hậu chầu trời, đều chép là “băng”, là theo đế chế.  Chỉ khi nào nhà vua còn làm hoàng tử mà hậu mất thì chép là “hoăng”[chữ dùng cho vua chư hầu chết; ở đây là trường hợp bà Trần Thị Hoa, vợ vua Minh Mạng] là để giữ tôn thống.

“Thời quốc sơ, Nam Bắc chia đôi, các "thánh của ta[các chúa Nguyễn] phù Lê chống Trịnh, cho nên phàm những việc của nhà Lê họ Trịnh có tương quan đến ta đều chép cả.  Trong các kỷ, về vua nhà Lê thì đều chép “băng”, về chúa họ Trịnh thì đều chép “tốt”[mất] .  Duy họ Trịnh có phạm tội thí nghịch đối với nhà Lê thì chép chữ “tử”[chết] để cho xứng với tội.

“Các kỷ chép việc họ Trịnh, ở đâu phải hệ thuộc vào nhà Lê, để không cho được tiếm.  Duy có việc quân Bắc vào đất ta thì chuyên chép họ Trịnh để tỏ không phải là ý vua Lê.

“Thời quốc sơ, hoàng tử xưng là công tử, tôn thất đều ghi rõ họ. Nay theo tôn phả thì chép là hoàng tử, tôn thất. Duy bọn Hiệp, Trạch, AnhTrung, Huệ, Thông đều phạm đại tội phản nghịch, đã phụ chép ở cuối tôn phả. Khi tội ác của họ chưa rõ thì vẫn chép là tôn thất, đến khi phạm tội, chỉ chép tên, là để răn bọn loạn thần tặc tử.

“Những bản chí lục chép việc cũ, các bề tôi chỉ xưng tước hàm mà bỏ thiếu họ tên.  Nay nếu xét rõ được, thì viết đủ họ tên, người nào nếu không xét được thì chép nguyên tước hiệu”( Thực lục I, tr.13-14)

Sau khi biên sọan xong một bộ sử, Quốc Sử Quán dâng bản thảo đầu tiên lên vua ngự lãm(xem). Sau đó, lại phải sửa chữa những chỗ vua không đồng ý hay bổ sung những chỗ vua cho là thiếu sót; khi bản cuối cùng được vua chấp thuận, bấy giờ mới cho thợ khắc bản gỗ để in ra thành sách. Toản tu chịu trách nhiệm kiểm soát việc in ấn này để tránh sai lầm.

Tòa nhà chính và Kệ tồn trữ sử liệu.
Tòa nhà chính và Kệ tồn trữ sử liệu.
Với việc thành lập Quốc Sử Quán  dưới thời Minh Mạng (1820-1841), triều đại Nhà Nguyễn,  trong 143 năm tồn tại (1802-1945), đã để lại một  gia tài sử học  và địa lý họcViệt Nam cận đại  rất đồ sộ: nào Đại Nam Thực lục, Đại Nam Liệt truyện, nào Minh Mạng Chánh yếu, Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Quốc triều Chánh biên Toát yếu, Đại NamNhất thống chí, Đồng Khánh Địa dư chí,v.v.

Riêng bộ ‘ Đại Nam thực lục là bộ chính sử lớn nhất, quan trọng nhất của nhà Nguyễn, do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn trong 88 năm mới hoàn thành, tính từ khi mới bắt đầu làm (1821 – Minh Mệnh năm thứ hai) đến khi hoàn thành và khắc in xong những quyển cuối cùng (1909 – Duy Tân năm thứ ba)’( Thực lục I, Lời giới thiệu của Viện Sử Học)

Chế độ CSVN, trước khi bước sang thế kỷ XXI, vốn phủ nhận tất cả những gì của Nhà Nguyễn đã làm, chê bai, miệt thị đủ thứ, nhưng trong sự huyên náo khùng điên đó, Viện Sử Học đã phiên dịch sang tiếng Việt toàn bộ Đại Nam Thực lục và xuất bản lần đầu năm 1962, tái bản lần thứ nhất năm 2004 với 10 tập dày cả vạn trang giấy.  Chừng đó cũng đủ nói lên giá trị to lớn không thể chối cãi của bộ sử này mặc dù đã trải qua một thời điên đảo.

Tài liệu tham khảo:

-Nội Các, Khâm định Đại Nam Hội điển Sự lệ, (gọi tắt Hội điển) tập VIII, bản dịch tiếng Việt của nhiều người, Viện Sử Học, Nxb Thuận Hóa, 2005.

-Quốc Sử Quán, Đại Nam Thực lục(gọi tắt Thực lục),

*Tập I, bản dịch của Tổ phiên dịch, Viện Sử Học, Nxb Giáo Dục, 2002.

*Tập V, bản dịch của Tổ phiên dịch, Viện Sử Học, Nxb Giáo Dục, 2004.

- Trần Trọng Kim, Việt Nam Sử Lược, Q.II, Institut de l’Asie du Sud-Est, Paris, 1987.

-Trần Kinh Hòa, Giới thiệu Châu bản Triều Nguyễn,

Dòng Việt, số 4, 1997, tr.167-187

-Võ Hương-An, Vua khải Định,Nxb Nam Việt, California, 2006

Xem Thêm

Văn hóa đọc là giá trị nền tảng góp phần phát triển con người và xã hội trong kỷ nguyên mới
Trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa, để đất nước vươn mình sánh vai cùng các cường quốc năm châu, không thể thiếu ánh sáng của tri thức, mà trong đó sách đóng vai trò trung tâm. Sách và Văn hoá đọc chính là nền tảng để xây dựng một xã hội học tập, sáng tạo và phát triển bền vững.
Giải pháp nào để phát triển các mô hình NN, thủy sản hiệu quả cao theo hướng an toàn, bền vững tại các tỉnh ĐBSCL?
Đó là những nội dung được các đại biểu đưa ra tại hội thảo khoa học “Giải pháp phát triển các mô hình nông nghiệp, thủy sản hiệu quả cao theo hướng an toàn, bền vững tại các tỉnh ĐBSCL” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) phối hợp với LHH tinh Kiên Giang và Viện Nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao công nghệ (Viện IHT) tổ chức ngày 12/4 tại TP Rạch Giá.
Sơn La: Tìm giải pháp quản lý, bảo vệ và sử dụng nguồn nước
Ngày 2/4, Liên hiệp hội tỉnh phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường tổ chức hội thảo "Thực trạng và giải pháp quản lý, bảo vệ và sử dụng nguồn nước". Sự kiện thu hút sự tham gia của hơn 40 đại biểu đến từ các sở, ban, ngành, doanh nghiệp, trường đại học, cao đẳng và cơ quan truyền thông địa phương.
Huế: Hội nghị về Nội tiết và Đái tháo đường năm 2025
Ngày 29/3, Hội Nội tiết và Đái tháo đường thành phố Huế phối hợp với Hội Nội tiết và Đái tháo đường Việt Nam đã tổ chức hội nghị khoa học Cố đô mở rộng lần thứ 8 về bệnh nội tiết, đái tháo đường, rối loạn chuyển hóa năm 2025.

Tin mới

Hà Giang: Góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung 06 Luật
Ngày 29/4, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Hà Giang (Liên hiệp hội) đã tổ chức hội thảo tư vấn, phản biện (TVPB), góp ý đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản, Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Quy hoạch.
Phát huy sức mạnh trí tuệ và tâm huyết của trí thức KHCN trong thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị
Nhằm triển khai hiệu quả Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam - LHHVN) xác định phát huy trí tuệ, trách nhiệm và tâm huyết của đội ngũ trí thức là nhiệm vụ trung tâm, tạo động lực để khoa học công nghệ và chuyển đổi số trở thành lực lượng sản xuất chủ đạo thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
An Giang: 30 trí thức KH&CN tiêu biểu được tôn vinh 2025
Chiều ngày 28/4, tại trụ sở Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh An Giang, Hội đồng xét chọn trí thức Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tiêu biểu tỉnh năm 2025 đã tổ chức phiên họp chính thức. Đây là lần thứ hai An Giang triển khai hoạt động xét chọn và tôn vinh trí thức KH&CN tiêu biểu.
Quảng Ngãi: Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III đã tìm ra nhà vô địch
Sau 2 ngày tranh tài sôi nổi, chiều ngày 27/5, tại Nhà thi đấu IEC Quảng Ngãi, Ban tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III, năm 2025 đã tổ chức bế mạc, trao 16 giải thưởng cho các đội đoạt giải. Đội CFF đến từ trường THPT Lê Trung Đình đã xuất sắc giành giải Nhất chung cuộc.
Khởi động Chương trình Biểu dương TOP Công nghiệp 4.0 năm 2025
Chương trình Biểu dương TOP Công nghiệp 4.0 nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp ứng dụng, chuyển giao, nghiên cứu và phát triển sản xuất các sản phẩm, nền tảng, giải pháp dựa trên công nghệ số để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, hiện thực hóa các cơ hội, tiềm năng mà chuyển đổi số mang lại khi đưa được công nghệ số vào mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đến từng người dân.
Khai mạc Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III
Ngày 26/4, tại Quảng Ngãi, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Quảng Ngãi phối hợp với Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật TP. Hồ Chí Minh, Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Quảng Ngãi và Tỉnh đoàn tỉnh Quảng Ngãi tổ chức khai mạc và vòng loại Cuộc thi Sáng tạo Robot Quảng Ngãi lần thứ III, năm 2025.
Văn hóa đọc là giá trị nền tảng góp phần phát triển con người và xã hội trong kỷ nguyên mới
Trong thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0 và toàn cầu hóa, để đất nước vươn mình sánh vai cùng các cường quốc năm châu, không thể thiếu ánh sáng của tri thức, mà trong đó sách đóng vai trò trung tâm. Sách và Văn hoá đọc chính là nền tảng để xây dựng một xã hội học tập, sáng tạo và phát triển bền vững.