Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ bảy, 27/08/2005 15:59 (GMT+7)

Quốc hiệu Việt Nam: Ý chí độc lập, tự do của dân tộc

Quan niệm phổ biến từ trước và nhiều kết quả nghiên cứu gần đây thường khẳng định quốc hiệu Việt Nam xuất hiện từ đầu thời Nguyễn, bởi vì sử của cả nước ta và Trung Quốc đều đề cập đến việc này.

Thực ra, không phải đến tận đầu thời Nguyễn, cái tên Việt Nam mới xuất hiện. Tên gọi Việt Nam được biết đến ít nhất từ thế kỷ 14, thường thấy trong nhiều thư tịch đương thời: Việt Nam thế chícủa Hồ Tông Thốc, Lịch triều hiến chương loại chícủa Phan Huy Chú, Dư địa chícủa Nguyễn Trãi, Trình tiên sinh quốc ngữ văncủa Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vân đài loạingữ của Lê Quý Đôn... Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải cũng sưu tầm được các văn bia (với niên đại trước thế kỷ 18) có khắc tên gọi Việt Nam,tại những địa điểm khác nhau ở miền Bắc: bia chùa Bảo Lâm (năm 1558, Hải Phòng), bia chùa Cam Lộ (năm 1590, Hà Tây), Bia chùa Phúc Thành (năm 1664, Bắc Ninh), bia Thủy Đình Môn (năm 1670, Lạng Sơn). Tên gọi Việt Namcó lẽ mang ý nghĩa kết hợp nòi giống và vị trí cư trú địa lý của dân tộc ta (Việt Nam- có ý nghĩa là nước của người Việt ở phía Nam ), thể hiện niềm tự tôn, tinh thần độc lập và phủ nhận sự áp đặt, miệt thị của phong kiến Trung Quốc. Tuy nhiên, nó chưa thể trở thành quốc hiệu vì chưa được các triều đại phong kiến nước ta tuyên bố hoặc ghi nhận bằng pháp luật.

Tên gọi Việt Namlần đầu tiên chính thức trở thành quốc hiệu của nước ta vào năm 1804. Nó được xác lập bởi một văn bản pháp lý quan trọng (chiếu)của Nhà nước Nguyễn, niên hiệu Gia Long thứ ba (cách đây 201 năm) và đã được thông báo cho nhà Thanh. Trong Dụ Am văn tậpcủa Phan Huy Ích có chép nguyên bản bài Tuyên cáo về việc đặt quốc hiệu mớicủa vua Gia Long (Nguyễn Ánh) vào năm 1804, nội dung như sau:

"Xuống chiếu cho thần dân trong thiên hạ đều biết:

Trẫm nghĩ, xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt quốc hiệu để tỏ sự đổi mới, hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp, xét trong sử sách chứng cớ đã rõ ràng. Đến thời Đinh Tiên Hoàng gọi là Đại Cồ Việt nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ thời Lý về sau, quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước. Tuy thế, vận hội dù có đổi thay nhưng trải bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính của việc dựng nước vậy. Trẫm nối nghiệp xưa, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, trẫm xét núi sông nên đặt tên tốt để truyền lâu dài... Ban đổi tên An Namlàm nước Việt Nam ,đã tư sang Trung Quốc biết rõ.

Từ nay trở đi, cõi viêm bang bền vững, tên hiệu tốt đẹp gọi truyền, ở trong bờ cõi đều hưởng phúc thanh ninh...".

Trong lịch sử nước ta có một hiện tượng phổ biến là quốc hiệu và tên gọi đất nước (quốc danh) có lúc không thống nhất. Chẳng hạn, năm 1054, nhà Lý đổi quốc hiệu là Đại Việt,quốc hiệu đó liên tục tồn tại đến hết đời Trần (1400), thế nhưng chiếu nhường ngôi của Lý Chiêu Hoàng cho Trần Cảnh ngày 10-1-1226 lại mở đầu bằng câu: "Nước Nam Việtta từ lâu đã có các đế vương trị vì". Nhà Hồ (1400-1407) đổi quốc hiệu là Đại Ngu(sự yên vui lớn), nhưng đa số dân chúng vẫn gọi là Đại Việt,còn người Trung Quốc gọi là Giao Chỉ.Thế kỷ thứ 15, trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi có viết: "Vua đầu tiên là Kinh Dương Vương, sinh ra có đức của bậc thánh nhân, được phong sang Việt Namlà tổ Bách Việt", nhưng trong Bình Ngô đại cáo,ông lại viết: "Như nước Đại Việtta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu". Đời Gia Long (1802-1820), quốc hiệu là Việt Nam,nhưng một bộ phận dân chúng vẫn quen gọi là Đại Việt,còn người Trung Quốc và phương Tây thường gọi An Nam...

Sau khi lên nối ngôi vua Gia Long, vua Minh Mạng lại cho đổi quốc hiệu là Đại Nam(1838), nên cái tên Việt Namkhông còn thông dụng như trước nữa. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, hai tiếng Việt Namđược sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và chí sĩ yêu nước: Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử(năm 1905) rồi cùng Cường Để thành lập Việt Nam Công hiến hội(năm 1908), Việt Nam Quang phục hội(năm 1912); Phan Châu Trinh viết Pháp-Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam,Trần Trọng Kim viết Việt Nam sử lược,Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội(năm 1925) và Việt Nam độc lập đồng minh hội(năm 1941)...

Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, trao danh nghĩa cai quản cho Bảo Đại, Bảo Đại đổi lại quốc hiệu từ Đại Namthành Việt Nam.Ngày 19-8-1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập,khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.Hiến pháp năm 1946 của chế độ mới đã chính thức thể chế hóa danh hiệu này. Từ đấy, quốc hiệu Việt Namđược sử dụng phổ biến, với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất.
Nguồn: cpv.org.vn 20/8/2005

Xem Thêm

Cao Bằng: Đẩy mạnh hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội
Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội có vai trò quan trọng nhằm bổ sung thêm những luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn một cách khách quan, tạo ra sự đồng thuận giữa các cơ quan quản lý, đối tượng quản lý và cộng đồng xã hội, đồng thời tạo ra tính khả thi, hiệu quả khi kết quả tư vấn, phản biện được áp dụng vào thực tiễn đời sống.
Dự án Vành đai 4 - Vùng Thủ đô phải minh bạch phương án tài chính
Khẳng định đầu tư theo phương thức đối tác công tư(PPP) đối với dự án thành phần 3 đầu tư xây dựng đường cao tốc thuộc DA Đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội là cần thiết, chuyên gia lưu ý, Nhà nước phải minh bạch phương án tài chính, có phương án tổ chức giao thông rõ ràng, nhất là đối với các phương tiện liên tỉnh bắt buộc phải đi qua Vành đai 4 để bảo đảm quyền lợi nhà đầu tư.
Các nhà khoa học góp ý cho Dự án Vành đai 4 – Vùng Thủ đô
Ngày 12/9, Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam (LHHVN) phối hợp với Tổng hội Xây dựng Việt Nam và Hội Khoa học và kỹ thuật Cầu đường Việt Nam tổ chức Hội thảo "Tác động của việc xây dựng Dự án đầu tư xây dựng đường cao tốc theo phương thức đối tác công tư thuộc Dự án đầu tư xây dựng đường Vành đai 4 - Vùng Thủ đô Hà Nội".
Nâng cao hiệu quả công tác tư vấn phản biện của Liên hiệp hội Việt Nam
Thời gian qua Liên hiệp Hội Việt Nam (LHHVN) đã chủ trì tổ chức thực hiện nhiệm vụ tư vấn, phản biện và giám định xã hội (TV, PB &GĐXH) rất sôi nổi. Rất nhiều cuộc toạ đàm, hội thảo đã được tổ chức, các hội thành viên, các tổ chức trực thuộc đã đóng góp được những ý kiến rất phong phú, bổ ích.
Phát huy hiệu quả hoạt động tư vấn phản biện và giám định xã hội
Hoạt động TVPB&GĐ XH là hoạt động mang tính xã hội, độc lập, khách quan, do trí thức đóng góp trí tuệ, cung cấp cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn cho Nhà nước và các cơ quan có thẩm quyền làm cơ sở đánh giá, phân tích và quyết định các vấn đề về đường lối, chủ trương, chính sách quan trọng và những chương trình, dự án lớn có liên quan về KH&CN, GD&ĐT và chính sách xây dựng đội ngũ trí thức.
Liên hiệp Hội Sơn La: Đẩy mạnh hoạt động tư vấn phản biện
Hoạt động tư vấn, phản biện và giám định xã hội có vai trò quan trọng nhằm bổ sung thêm những luận cứ khoa học, cơ sở thực tiễn một cách hiện thực, khách quan, tạo ra sự đồng thuận giữa các cơ quan quản lý, đối tượng quản lý và cộng đồng xã hội, tạo ra tính khả thi, hiệu quả khi áp dụng vào thực tiễn đời sống.
Phát triển nhà ở xã hội: Cần bổ sung cụ thể vào Dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi)
Trong tờ trình về dự thảo Luật Nhà ở (sửa đổi) gửi Thủ tướng Chính phủ mới đây, Bộ Xây dựng cho biết, nhiều năm qua, việc chăm lo giải quyết nhà ở cho người dân luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm quan tâm và xác định là nhiệm vụ trọng tâm trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Tin mới

84 giải pháp đoạt giải Hội thi Sáng tạo kỹ thuật toàn quốc lần thứ 17
Tối 23/4, tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Quỹ Hỗ trợ Sáng tạo kỹ thuật Việt Nam (Vifotec) đã phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Trung ương Ðoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tổ chức tổng kết và trao giải thưởng Hội thi Sáng tạo kỹ thuật lần thứ 17 (2022-2023).
Bí thư TW Đảng Nguyễn Trọng Nghĩa: Hoạt động của LHHVN ngày càng đổi mới, ổn định và phát triển
Phát biểu tại buổi làm việc với LHHVN, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa đã khẳng định những thành quả, nỗ lực của LHHVN trên chặng đường hơn 40 năm hình thành và phát triển, đồng thời nhận định hoạt động của LHHVN có nhiều đổi mới, ổn định, phát triển hơn.