Quốc hiệu Việt Nam
Quan niệm phổ biến từ trước và nhiều kết quả nghiên cứu gần đây thường khẳng định quốc hiệu Việt Nam xuất hiện từ đầu thời Nguyễn, bởi vì chính sử của cả nước ta và Trung Quốc đều ghi nhận cụ thể việc này. Năm 1802, sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh (vua Gia Long) phái hai đoàn sứ giả sang Trung Quốc. Một đoàn do Thượng thư Bộ Hộ là Trịnh Hoài Đức làm Chánh sứ, đem trao trả lại sách ấn mà triều Thanh phong cho nhà Tây Sơn. Đoàn kia do Thượng thư Bộ Binh là Lê Quang Định làm Chánh sứ, xin phong vương cho Nguyễn Ánh và xin đặt quốc hiệu là Nam Việt . Lời quốc thư của Nguyễn Ánh có đoạn:
“…Mấy đời trước mở đất viên giao ngày càng rộng, gồm cả nước Việt Thường và nước Chân Lạp, đặt quốc hiệu là Nam Việt , truyền nối hơn hai trăm năm. Nay tôi lấy hết cõi Nam, có toàn cõi đất Việt, nên theo hiệu cũ để chính quốc danh…”.
Cũng năm 1802, nhà Thanh chuẩn danh xưng quốc hiệu nước ta là Việt Nam . Nhưng đến năm Gia Long thứ 3 (1804), sứ giả nhà Thanh là Tế Bồ Sâm mới mang cáo sắc, quốc ấn đến Thăng Long để làm lễ phong vương cho Nguyễn Ánh.
Như vậy, quốc hiệu Việt Nam được công nhận từ năm 1802, nhưng phải đến năm 1804 mới được thừa nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao. Giữa hai mốc thời gian này, có nhiều cuộc đi lại, tranh luận, hội đàm khá phức tạp giữa hai triều đình Nguyễn – Thanh, bởi vì nhà Nguyễn muốn lấy quốc hiệu nước ta là Nam Việt như hồi các chúa Nguyễn khởi nghiệp, nên không bằng lòng ngay với sự đổi thành Việt Nam của nhà Thanh. Trong cuốn Nước Đại Việt Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa, tác giả người Nhật Bản Yoshiharu Tusuboi căn cứ vào kết quả nghiên cứu của nhà Đông phương học Chusei Suzuki, cũng khẳng định điều đó: “Năm 1803, có những cuộc thương thảo rất quan trọng về quốc hiệu dưới triều Nguyễn: Nam Việt hay Việt Nam”.
Sở dĩ nhà Thanh muốn sửa Nam Việt thành Việt Nam và vì hai lí do. Thứ nhất, trong lịch sử Trung Quốc từng có Triệu Đà nổi dậy cát cứ, lập ra nước Nam Việt, tự xưng là hoàng đế; các triều đại trung ương ở Trung Quốc đều không thừa nhận nước Nam Việt này, nhà Thanh cũng vậy và không muốn bị gợi lại quá khứ ấy. Thứ hai (lí do này mới quan trọng), Nam Việt – theo cách hiểu truyền thống – có thể gồm cả miền đất nước ta và các xứ Việt Đông, Việt Tây (tức Quảng Đông, Quảng Tây) của Trung Quốc, nên nếu đặt làm quốc hiệu nước như vậy, sau này có thể gây rắc rối về lãnh thổ. Quốc thư phúc đáp của vua Thanh gửi vua Nguyễn đã tế nhị trình bày lí do đó và khéo léo chuẩn danh xưng quốc hiệu nước ta là Việt Nam .
“… Lúc trước có đất Việt Thường đã xưng là nước Nam Việt, nay có cả đất An Nam, xét ra cho kĩ, thì nên gộp cả đất đai trước sau mà đặt danh hiệu tốt. Vậy, định lấy chữ Việt để trên, tỏ việc giữa đất cũ nối nghiệp trước; lấy chữ Nam đặt dưới, tỏ việc mở cõi nam giao mà chịu quyền mệnh mới. Như thế thì danh xưng chính đại, nghĩa chữ tốt lành, so với hai đất Việt nước Tàu khác nhau xa lắm…”.
Thực ra, không phải đến tận đầu thời Nguyễn, cái tên Việt Nam mới xuất hiện. Tên gọi Việt Nam được biết đến ít nhất từ thế kỉ 14, thường thấy trong nhiều thư tịch đương thời: Việt Nam thế chícủa Hồ Tông Thốc, Lịch triều hiến chương loại chícủa Phan Huy Chú, Dư địa chícủa Nguyễn Trãi, Trình tiên sinh quốc ngữvăn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn,… Nhà nghiên cứu Nguyễn Phúc Giác Hải cũng sưu tầm được các văn bia (với niên đại đều trước thế kỉ 18) có khắc tên gọi Việt Nam , tại những địa điểm khác nhau ở miền Bắc: bia chùa Bảo Lâm (năm 1558, Hải Phòng), bia chùa Cam Lộ (năm 1590, Hà Tây), bia chùa Phúc Thành (năm 1664, Bắc Ninh), bia Thuỷ Đình Môn (năm 1670, Lạng Sơn). Tên gọi Việt Nam có lẽ mang ý nghĩa kết hợp nòi giống và vị trí cư trú địa lí của dân tộc ta (Việt Nam - nước của người Việt ở về phía Nam), thể hiện niềm tự tôn, tinh thần độc lập và phủ nhận sử áp đặt, miệt thị của người Trung Quốc. Tuy nhiên, nó chưa thể trở thành quốc hiệu vì chưa được các triều đại phong kiến nước ta tuyên bố hoặc ghi nhận bằng pháp luật.
Dụ Am văn tậpcủa Phan Huy Ích có chép nguyên bản bài Tuyên cáo về việc đặt quốc hiệu mới của vua Gia Long (Nguyễn Ánh) vào năm 1804, nội dung như sau:
“Xuống chiếu cho thần dân trong thiên hạ đều biết:
Trẫm nghĩ, xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt quốc hiệu để tỏ sự đổi mới, hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp, xét trong sử sách chứng cớ đã rõ ràng. Nước ta: sao chùa Dực, Chân, cõi Việt hùng cường. Từ lâu đã có tên Văn Lang, Vạn Xuân còn thô kệch. Đến đời Đinh Tiên Hoàng gọi là Đại Cồ Việt nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ thời Lý về sau, quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước. Tuy thế, vận hội có đổi thay nhưng trải bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính của việc dựng nước vậy. Trẫm nối nghiệp xưa, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, trẫm xét núi sông nên đặt tên tốt để truyền lâu dài… Ban đổi tên An Nam làm nước Việt Nam, đã tư sang Trung Quốc biết rõ.
Từ nay trở đi, cõi viêm bang bền vững, tên hiệu tốt đẹp gọi truyền, ở trong bờ cõi đều hưởng phúc thanh ninh…”.
Trong lịch sử nước ta có một hiện tượng rất thú vị là quốc hiệu và tên gọi đất nước (quốc danh) không thống nhất. Chẳng hạn, năm 1054, nhà Lý đổi quốc hiệu là Đại Việt, quốc hiệu đó liên tục tồn tại đến hết đời Trần (1400) thế nhưng chiếu nhường ngôi của Lý Chiêu Hoàng cho Trần Cảnh ngày 10/1/1226 lại mở đầu bằng câu: “Nước Nam Việtta từ lâu đã có các đế vương trị vì”. Nhà Hồ (1400 – 1407) đổi quốc hiệu là Đại Ngu (sự yên vui lớn), nhưng đa số dân chúng vẫn gọi là Đại Việt , còn người Trung Quốc gọi là Giao Chỉ . Thế kỉ thứ 15, trong Dư địa chí, Nguyễn Trãi có viết: “Vua đầu tiên là Kinh Dương Vương, sinh ra có đức của bậc thánh nhân, được phong sang Việt Namlàm tổ Bách Biệt”, nhưng trong Bình Ngô đại cáo, ông lại viết: “Như nước Đại Việt ta từ trước, vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Đời Gia Long (1802 – 1820), quốc hiệu là Việt Nam , nhưng một bộ phận dân chúng vẫn quen gọi là Đại Việt , còn người Trung Quốc và phương Tây thường gọi là An Nam .
Sau khi lên nối ngôi vua Gia Long, vua Minh Mạng cho đổi quốc hiệu là Đại Nam (1838), và cái tên Việt Nam không còn thông dụng như trước nữa. Tuy nhiên, từ cuối thể kỉ 19 và đầu thế kỉ 20, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và chí sĩ yêu nước, trong nhiều tác phẩm và tên tổ chức chính trị: Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử(năm 1905) rồi cùng Cường Để thành lập Việt Nam cống hiến hội(năm 1908), Việt Nam Quang phục hội(năm 1912); Phan Châu Trinh viết Pháp - Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, Trần Trọng Kim viết Việt Nam sử lược, Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội( năm 1925) và Việt Nam độc lập đồng minh hội(năm 1941)…
Ngày 9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp, trao chính quyền hình thức cho Bảo Đại, Bảo Đại đổi lại quốc hiệu từ Đại Nam thành Việt Nam . Ngày 19/8/1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà . Hiến pháp năm 1976 chính thức thể chế hoá quốc hiệu này. Từ đấy, hai tiếng Việt Nam được sử dụng phổ biến, với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất của nó.
Nguồn: Ngôn ngữ và Đời sống, số 9 (119), 2005