Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 25/08/2006 18:00 (GMT+7)

Phương Đông trước hoạ “Ngoại giao bằng pháo hạm”

Bước đi đầu tiên trong kế hoạch xâm nhập là sử dụng thủ đoạn ngoại giao, và phương pháp quen thuộc của thực dân phương Tây đối với các nước phương Đông là cử phái viên mang quốc thư đi tàu chiến đến xin thông thương. Các nhà ngoại giao thường đến với thái độ mềm mỏng và lễ vật hậu hĩnh, nhưng đằng sau vẻ lịch sự và khiêm tốn đó là sự đe doạ ngầm sẽ dùng vũ lực, nếu đề nghị của họ không được chấp nhận. Kiểu giao thiệp ấy được gọi là phương pháp “ngoại giao bằng pháo hạm”.

Ngày 16-9-1856, vua Napoléon III nước Pháp cử phái bộ đáp tàu chiến Catinat đến Đà Nẵng xin thông thương, nhưng không được triều đình Huế tiếp kiến. Cho rằng sự khước từ đó là làm nhục quốc thể của họ, phái bộ Pháp ra lệnh bắn phá lên bờ rồi nhổ neo ngày 26 cùng tháng. Những lần sau, các phái bộ khác đến Đà Nẵng cũng bị nhà cầm quyền Việt Nam lạnh nhạt, nên người Pháp quyết định dùng pháo hạm để “nói chuyện”. Sớm ngày 1-9-1858, hạm đội Pháp, được hải quân Tây Ban Nha hỗ trợ, dàn quân trên biển, pháo kích dữ dội lên Đà Nẵng, chính thức mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.

Trong khi thực dân Pháp dùng sức mạnh uy hiếp nước ta, thì pháo hạm được người Anh sử dụng đã gây sức ép với Trung Hoa, nhân việc triều đình Mãn Thanh ra lệnh cấm buôn bán thuốc phiện. Việc kinh doanh thứ ma tuý gọi là thuốc phiện hay nha phiến được thương nhân Hà Lan tập trung ở Ma Cao từ những thập niên đầu thế kỷ XIX, khiến rất nhiều người Trung Hoa mắc nghiện. Người ta tính rằng có trên 10 triệu người nghiện thuốc phiện trong năm 1830. Số người nghiện càng nhiều thì nhu cầu về nha phiến càng tăng. Lái buôn thuộc công ty Đông Ấn của Anh đánh hơi thấy những khoản lợi nhuận khổng lồ do kinh doanh món hàng đó mang lại. Thuốc phiện được người Anh nhập vào Trung Hoa ngày càng có tổ chức và quy mô lớn.

Thấy thuốc phiện nhập vào nước mình làm cho dân tộc thêm bạc nhược, kinh tế càng suy đốn, các vua Gia Khánh và Đạo Quang ra lệnh nghiêm cấm buôn bán món hàng đó. Tuy vậy, thứ ma tuý này vẫn được đưa lậu và Quảng Châu, dưới sự che chở của những quan lại ăn hối lộ. Năm 1835, nha phiến trở thành nguồn hàng chủ yếu nhập vào Trung Hoa, hầu như không bị kiểm soát và đánh thuế. Tàu buôn Anh đậu ở ngoài khơi chuyển hàng cho gian thương dùng thuyền nhỏ đưa vào bờ.

Năm 1838, vua Đạo Quang ra lệnh cho cả quan lại lẫn dân chúng không được hút thuốc phiện. Ông cử Lâm Tắc Từ làm Khâm sai Đại thần ở Quảng Đông kiểm soát việc thi hành lệnh cấm của triều đình. Nhà vua cũng đồng thời gửi tối hậu thư cho Nữ hoàng Anh là Victoria cảnh cáo rằng nếu người Anh không chấm dứt việc “gây tổn hại cho một đế chế hùng mạnh”, thì quân Trung Hoa sẽ kéo sang nghiền nát nước Anh. Thấy nếu thương nhân nước mình phải từ bỏ việc buôn bán thuốc phiện thì nền ngoại thương sẽ mất một nguồn lợi lớn, và cũng vì tức giận trước lời đe doạ khoác lác của triều đình Trung Hoa, Bộ trưởng Ngoại giao lúc đó là Tử tước Palmerston liền quyết định trả lời bằng pháo hạm.

Mười sáu tàu chiến hộ tống 28 tàu vận tải chở 15.000 quân sang Trung Hoa, mở đầu cuộc chiến tranh Nha phiến lần thứ nhất. Pháo hạm bắn phá Quảng Châu, rồi tiến lên phía Bắc cho quân đổ bộ chiếm nhiều đô thị. Triều đình nhà Thanh hốt hoảng cầu hoà lúc quân Anh tiến vào Chiết Giang và Thiên Tân. Nhà vua chấp nhận ký điều ước Nam Kinh năm 1842 khi chúng bắn phá thành phố này và đánh chiếm Thượng Hải. Trung Hoa nhường Hồng Kông và Thượng Hải cùng ba hải cảng khác cho Anh. Ngoài ra còn phải mở rộng cửa cho người phương Tây buôn bán, vì vậy, dân buôn lậu thuốc phiện lại ngang nhiên hoành hành.

Triều đình Mãn Thanh một lần nữa tìm cách ngăn chặn buôn bán nha phiến năm 1854. Thế là một đoàn pháo hạm được Palmerston, lúc đó đã là Thủ tướng, phái sang can thiệp. Lần này liên quân Anh-Pháp đã đánh vào Quảng Châu và Thiên Tân, buộc người Trung Hoa ký điều ước mới với Anh, Pháp, Mỹ và Nga hai năm sau. Thêm chín hải cảng được mở cho thương nhân nước ngoài, giáo sĩ được tự do truyền đạo, các công sứ quán được thiết lập tại Bắc Kinh, ấy là chưa kể các khoản bồi thường chiến phí.

Thấy bị tổn hại quá nhiều, triều đình Mãn Thanh có ý định hủy bỏ điều ước, ngăn cản các nhà ngoại giao phương Tây vào Bắc Kinh. Liên quân Anh- Phép bèn lôi kéo thêm một số nước tấn công kinh đô, vua Hàm Phong khiếp sợ bỏ hoàng cung trốn về Nhiệt Hà, uỷ nhiệm người em là Cung Thân vương thương thuyết với đối phương. Điều ước Bắc Kinh được ký năm 1860, sức mạnh của pháo hạm đạt kết quả to lớn.

Đường lối ngoại giao pháo hạm được người Mỹ thi hành ở Nhật Bản năm 1853. Sáng ngày 6 tháng 7 năm đó, Thiếu tướng hải quân Matthew C. Perry cầm đầu 4 tàu chiến tiến vào vịnh Edo, bây giờ là thủ đô Tokyo. Dân chúng tụ tập trên bờ xem đoàn tàu lạ, chợt hoảng loạn khi 13 phát đại bác nổ vang “chào mừng” nước Nhật. Perry trình bày với nhà chức trách địa phương là mình được trao nhiệm vụ đến kết tình giao hảo. Ông ta đề nghị gặp Nhật hoàng để bàn bạc việc thiết lập quan hệ thương mại, xin mua than và thực phẩm, đồng thời yêu cầu Nhật Bản bảo vệ dân đánh cá bị nạn ngoài khơi.

Mặc dầu nước Nhật từ nhiều thế kỷ do các Shogun (những người trực tiếp nắm quyền từ cuối thế kỷ XII đến gần cuối thế kỷ XIX) cầm quyền, nhà vua chỉ là hư vị nhưng vẫn là biểu tượng của đất nước. Yêu cầu của Perry gặp chính Nhật hoàng để bàn bạc, chứ không muốn nói chuyện với cấp dưới, đã xúc phạm nhà chức trách nước này. Shogun ra lệnh cho ông ta đưa tàu về cảng Nagasaki, tướng Perry tức giận doạ sẽ đánh chìm tất cả tàu bè của Shogun.

Trong khi nước Anh hùng mạnh lăm le nhảy vào thị trường Nhật Bản, Perry hiểu rằng bây giờ là lúc phải gấp rút đòi nước này mở cửa thông thương với Mỹ. Muốn ý đố đó nhanh chóng đạt kết quả, “ngoại giao pháo hạm” là bước đi cần thiết đầu tiên để thương lượng. Trước sức mạnh của tàu chiến, Shogun thấy rõ thế yếu của mình, đành chấp nhận thu xếp cho Perry gặp nhà vua để trao quốc thư của Tổng thống Mỹ. Sự nhân nhượng của nhà cầm quyền Nhật Bản chưa làm cho Perry hài lòng, ông ta đe doạ là trước khi xuống tàu về nước, sẽ trở lại với một lực lượng hùng hậu hơn để dạy cho người Nhật “biết lễ phép”.

Thực hiện lời răn đe, ít lâu sau Perry dẫn đến 24 con tàu, nhưng lần này chở nhiều tặng vật, chủ yếu là hàng công nghiệp cùng vài khẩu trọng pháo để người Nhật hoa mắt về kỹ thuật phương Tây. Shogun bằng lòng mở hai thương cảng để người Mỹ thông thương, và cho lập cơ quan lãnh sự. Năm năm sau, hiệp ước Kanagawa ký kết, người Mỹ được buôn bán ở 5 hải cảng, và mở đại sứ quán tại kinh đô Nhật.

Năm 1858, Nhật ký với Anh một hiệp ước nhưng khi xem xét lại, shogun thấy nhiều điều khoản bất công nên không muốn thi hành trọn vẹn các thoả thuận. Để ép nước Nhật nghiêm chỉnh thực hiện những điều đã ký kết, hạm đội Anh, với sự trợ lực của hải quân Pháp, kéo sang bắn phá cảng Kagoshimura cùng các pháo đài tại eo biển Shimonoseki năm 1864. Trong nước náo loạn, dân chúng cho rằng tai hoạ giáng xuống đất nước là do Shogun, bèn nổi lên đòi đánh đổ chính quyền.

Nhìn sang các nước xung quanh người Nhật cũng thấy phương Tây làm mưa làm gió được vì nền kinh tế - xã hội ở những nơi đó quá lạc hâu. Sở dĩ Nhật Bản bị các thế lực bên ngoài o ép là do đất nước suy yếu. Muốn cho dân tộc hùng cường thì phải học tập kỹ thuật phương Tây để duy tân đất nước. Lực lượng nhận thức rõ nhất yêu cầu thiết thân đó là các Samurai (một đẳng cấp trong chế độ Shogun trước năm 1868) trẻ tuổi, những người đã thắng trong cuộc nội chiến năm 1867. Họ đánh đổ thế lực của Shogun và khôi phục quyền hành thật sự cho nhà vua. Kỷ nguyên Minh Trị mở ra, xã hội Nhật Bản cổ truyền bao đời bị đè nặng dưới chế độ phong kiến hủ lậu bắt đầu đổi mới để dần dần trở thành một quốc gia hùng mạnh.

Nhà nước Nhật Bản mới nhận thấy trường học từ nhiều thế kỷ qua chỉ giáo dục theo lối từ chương, xa rời thực tế. Muốn cho đất nước mở mang thì phải thay đổi hệ thống giáo dục, sách vở cũ phải loại bỏ, phương pháp giảng dạy cần được thay thế. Chính phủ lựa chọn những sinh viên có tài, có chí gửi sang các trường đại học lớn của Mỹ như Yale, Princeton... Các chàng trai này thấm nhuần một tinh thần dân tộc cao, ngày đêm miệt mài đèn sách với tâm nguyện sau này đem tài năng về chấn hưng đất nước. Họ không quên những bài học lịch sử về thời kỳ qua, lúc đất nước bị người nước ngoài chèn ép, phải nhượng bộ hết lợi ích này đến lợi ích khác.

Quân đội Nhật cũng được cách tân hoàn toàn. Cung nỏ, giáo mác được thay thế bằng súng đạn hiện đại, binh lính do chuyên gia Pháp hoặc Nga huấn luyện theo kiểu mới. Riêng về hải quân, chính phủ bỏ tiền mua các tàu chiến của Anh, và mời sĩ quan Anh chỉ huy.

Không đầy 10 năm sau, nước Nhật bắt đầu cường thịnh. Công nghiệp sản xuất hàng hoá dồi dào, chẳng những thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước, mà còn dư thừa để xuất khẩu. Vì sản xuất phát triển mạnh, nước Nhật cũng nhòm ngó thị trường bên ngoài, và từ năm 1867, bắt đầu cũng áp dụng “chính sách ngoại giao pháo hạm” học được của phương Tây để đạt mục đích. Nước Nhật bây giờ không còn là một quốc gia để những Mathew C. Perry ăn hiếp nữa.

Gần cuối thế kỷ XIX, Nhật Bản đứng trong hàng ngũ các nước đế quốc chủ nghĩa, Lục quân Nhật đuổi quân đội Mãn Thanh ra khỏi Triều Tiên, hải quân đánh tan hạm đội Bắc Dương của Trung Hoa gần Uy Hải Vệ, chiếm quân cảng Lữ Thuận, đánh chiếm Đài Loan, buộc nhà Thanh ký điều ước Shimonoseki năm 1899. Năm 1904, hải quân Nhật đánh bại hạm đội Viễn Đông của Nga ở Phụng Thiên năm 1905, tàu chiến Nhật bắn chìm gần hết hạm đội Ban-tích của Nga tại eo biển Tushima giữa Nhật Bản và Triều Tiên. Nước Nhật trở thành một trong những cường quốc lớn.

Nguồn: Dân tộc & Thời đại, số29, 7/2006, tr 19

Xem Thêm

An Giang: 8 giải pháp thực hiện đột phá phát triển khoa học công nghệ
Đến nay, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội tỉnh) đã tập hợp được 40 hội, tổ chức thành viên với 9.554 hội viên cá nhân, trong đó có hơn 3.451 hội viên trí thức. An Giang xác định và đề ra mục tiêu về đột phá phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số (KHCN, ĐMST, CĐS) đến năm 2030.
Thanh Hoá: Hội thảo KH về giải quyết tình trạng thiếu lao động ở nông thôn, lao động trực tiếp tham gia SX nông nghiệp
Sáng ngày 27/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh (Liên hiệp hội) phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ, Viện Nông nghiêp tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp giải quyết tình trạng thiếu lao động sản xuất ở khu vực nông thôn, lao động có kỹ thuật, tay nghề cao trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp, nhất là nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ”.
Bình Thuận: Đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất
Sáng ngày 27/5, tại thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh phối hợp với Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh tổ chức hội thảo khoa học với chủ đề “Giải pháp đột phá trong ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ vào thực tiễn quản lý và sản xuất trên địa bàn tỉnh Bình Thuận”.

Tin mới

An Giang: 25 giải pháp của Hội thi Sáng tạo kỹ thuật được vinh danh
Ngày 14&15/6, tại TP. Long Xuyên, Hội đồng Giám khảo Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật tỉnh lần thứ XIV (năm 2024–2025) đã tổ chức chấm chọn vòng chung khảo với sự tham gia của các chuyên gia đến từ các sở, ban, ngành cấp tỉnh, doanh nghiệp, giảng viên Trường Đại học An Giang, Trường Cao đẳng Nghề An Giang cùng các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh.
Đồng Tháp: Lan tỏa tinh thần sáng tạo trong Thanh Thiếu niên, Nhi đồng
Sáng ngày 16/6, Ban Tổ chức Cuộc thi Sáng tạo Thanh Thiếu niên, Nhi đồng tỉnh đã tổ chức Lễ Tổng kết và Trao giải Cuộc thi lần thứ 18, năm 2025. Tham dự có Thường trực Ban Tổ chức Cuộc thi; đại diện lãnh đạo các sở ngành Tỉnh, UBND các huyện, thành phố; quý thầy cô giáo và các học học sinh.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.