Phòng trừ sâu, bệnh hại lúa xuân
Bọ trĩ
Con trưởng thành màu đen, thon dài 1,5-2mm, đẻ trứng trên mô lá; bọ trĩ non rất nhỏ, màu trắng vàng, không có cánh, tập trung ở ngọn lá. Cả trĩ trưởng thành và trĩ non đều hút nhựa lá, mật độ cao làm cho cả ruộng mạ, ruộng lúa khô táp; thường hại nặng lúa xuân muộn thời kỳ mạ, và lúa bén rễ hồi xanh đến đẻ nhánh rộ. Vòng đời: trứng 3 ngày; bõ trị non 10-14 ngày; trĩ trưởng thành 15-21 ngày.
Cách diệt trừ : Phun phòng cho mạ trước khi cấy bằng thuốc Actara 25EC. Mật độ cao, dùng thuốc có tác dụng nội hấp (phun 1 lần) như: Actara 25EC, Conphai 10WP, Confidor 70WP, Rhironin 800 WG. Thuốc có tác dụng tiếp xúc như: Sokupi 0,36 AS, Padan 95SP, Sherpa 25EC, Tre bon 10EC… (phun 2 lần, mỗi lần cách nhau 5-7 ngày).
Rầy nâu
Trứng hình bầu dục cong, một đầu to một đầu nhỏ trong suốt. Rầy non có 5 tuổi. Lúc nhỏ màu đen xám, sau màu vàng nâu, thân hình tròn trĩnh. Rầy trưởng thành đẻ trứng trên gân và bẹ lá. Mỗi con cái có thể đẻ 400-600 trứng. Rầy non ít di động, tập trung ở gốc lúa hút dịch cây. Mật độ cao có thể gây cháy rầy trên diện rộng. Rầy nâu thường hại nặng lúa xuân giai đoạn trổ bông - chín. Thời gian phát dục: Trứng 4-7 ngày, rầy non 12-13 ngày, rầy trưởng thành 10-15 ngày.
Phòng trị : Nếu mật độ trên 1.000 con/m 2(20 con/khóm), dùng các loại thuốc mới ít độc hại như: Applaud 25WP, Butyl 10WP hoặc thuốc Actara 25EC, Conphai 10WP, Confidor 70WG, Sutin 5EC có tính nội hấp, không cần rẽ lúa khi phun, sau khi phun 4-6 giờ gặp mưa không cần phun lại. Nếu mật độ rầy trên 5.000 con/m 2dùng: basa 40EC hoặc Trebon 10EC, Mipsin 30BHT + Padan 95SP hoặc Regent 800WG, Sattrungdan phun trực tiếp vào gốc lúa nơi rầy cư trú, chú ý ruộng phải có nước ngập 5-7cm và rẽ 5-6 hàng thành một luống khi phun.
Sâu đục thân hai chấm
Ngài đực thân dài 8-9mm, cánh trước màu vàng nhạt, ngài cái thân dài 10-13mm, cánh trước màu vàng nhạt có một chấm đen rất rõ ở giữa cánh, cuối bụng có một chùm lông màu vàng nhạt. Trứng đẻ theo ổ trên thân, lá lúa (50-150 trứng/ổ). Sâu non có 5 tuổi. Thời gian phát dục: Trứng 5-7 ngày, sâu non 25-30 ngày, nhộng 5-7 ngày, ngài 3-5 ngày. Nhộng màu vàng nhạt nằm trong gốc lúa. Sâu non hại thân lúa gây hiện tượng dảnh héo, bông bạc. Thường hại khi lúa trỗ sau ngày 15/5.
Cách phòng trừ : Phòng trừ ở giai đoạn trổ bông muộn sau ngày 15-5 bằng các loại thuốc đặc hiệu như: Padan (Patox, Gà nòi) 95 SP, Regent 800WG khi sâu mới nở, tuổi 1,2.
Bệnh khô vằn
Bẹ lá bị bệnh biến màu, trên bẹ lá xuất hiện các vệt to, hình bầu dục, đầu tiên màu xanh xám, sau bạc nâu có viền màu nâu tím. Các vết bệnh lớn dần hoà lẫn vào nhau, vằn vèo ở bất kỳ chỗ nào trên bẹ lá. Vụ xuân, giai đoạn lúa có đòng và trỗ chín thường bị bệnh nặng, vết bệnh leo lên phiến lá đòng làm bông lúa bị lửng lép 30-50%.
Phòng trừ : Phun thuốc kịp thời khi bệnh mới xuất hiện bằng các loại thuốc đặc hiệu: Thuốc có tác dụng tiếp xúc như Validamycin 3-5% khi lúa giao tán phun 3 bình bơm 24-30 lít/sào Bắc Bộ (360m2) vào bẹ lá nơi bị bệnh (phun 2-3 lần, nếu sau khi phun 12 giờ gặp mưa cần phun lại). Các loại thuốc có tác dụng nội hấp như: Anvil 5-10 EC, Tilt-supe 300ND, Carbendazim 50WP… phun 1-2 lần (cách nhau 7-10 ngày), dùng 12-16 lít thuốc đã pha/sào Bắc Bộ, phun lên tán lá.
Bệnh đạo ôn
Bệnh xuất hiện trên lá, đầu tiên là những vết dầu nhỏ màu xanh, sau thành hình thoi, bầu dục, tròn, rìa màu nâu đỏ, giữa bạc trắng. Bệnh hại nặng các cổ lá lúa xếp xít nhau, lá xoè ngang màu vàng đỏ, sau bạc trắng, cây lúa lùn xuống. Trên các đốt thân, cổ lá bị bệnh có màu xám đen. Lá, thân bị gãy gục. Trên cổ bông đoạn giáp tai lá hoặc hạt thóc, có những điểm màu nâu xám, vết bệnh to dần bao quanh cổ bông làm bông lúa bị héo bạc trắng. Trường hợp bênh bị muộn hoặc bị nhẹ cổ bông, lúa không bị bệnh nhưng từng giẻ (chẽ) lúa có thể bị bệnh.
Phòng trừ : Khi lúa bị bệnh không bón phân đạm, kali; giữ mực nước 3-5 cm; phun các loại thuốc đặc hiệu: Thuốc tiếp xúc Newhynosan 30EC, cần phun 2-3 lần, mỗi lần cách nhau 7-10 ngày; thuốc có tác dụng nội hấp, có hiệu quả cao như: Beam (Trizonle) 20WP, Fujione 40EC, Filia-525SE, phun 1-2 lần, mỗi lần cách nhau 10-15 ngày.
Nếu lúa xuân trổ bông sớm từ 20 đến 30-4, thường gặp gió mùa Đông Bắc muộn trời âm u thiếu ánh sáng, có mưa rào hoặc mưa phùn, nhiệt độ không khí mát (22-26 độ C), thuận lợi cho bệnh phát triển, cần phải phun phòng bệnh đạo ôn cổ bông khi lúa thấp thó trổ bông (5% số bông đã trổ) bằng một trong các loại truốc trừ đạo ôn có tác dụng nội hấp trên.
Nguồn: Kinh tế nông thôn, số 9 (495), 27/2/2006








