Phong trào Nam tiến năm 1945
Ngày 23-9-1945, thực dân Pháp với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn - Gia Định rồi sau đó đánh rộng ra cả Nam Bộ, Nam Trung Bộ.
Rạng sáng ngày 23 tháng 9 năm 1945, Hội nghị Liên tịch giữa Xứ uỷ, Tổng bộ Việt Minh, Uỷ ban hành chính Nam Bộ, Uỷ ban kháng chiến Nam Bộ họp khẩn cấp tại phố Cây Mai (Chợ Lớn), có đồng chí Hoàng Quốc Việt thay mặt Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh dự Hội nghị quyết định phát động nhân dân kiên quyết kháng chiến chống quân xâm lược, ra lệnh tổng bãi công, bãi thị, bất hợp tác với địch, phong toả địch…
Nhân dân Nam Bộ đã anh dũng chiến đấu chống trả thực dân Pháp xâm lược, sớm bước vào cuộc kháng chiến lâu dài, gian khổ của dân tộc.
Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng đồng bào cả nước theo dõi từng ngày tình hình chiến sự ở Nam Bộ, phát động phong trào ủng hộ cuộc kháng chiến của đồng bào Nam Bộ, Nam Trung Bộ, quyết định đưa những chi đội tinh nhuệ của Việt Nam Giải phóng quân và những thanh niên ưu tú lên đường Nam tiến, cùng đồng bào và chiến sĩ miền Nam chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Cả nước dấy lên phong trào Nam tiến.Sôi nổi nhất là các tầng lớp thanh niên nô nức đến các phòng Nam Bộở các tỉnh thành miền Bắc, miền Trung, ghi tên vào Nam chiến đấu. Những khẩu hiệu: “Nước Việt Nam là một”, “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam…” thôi thúc mọi người. Tất cả các trường học đều đóng cửa… Các đoàn xe lửa ngày đêm hối hả chở quân vào Nam, khắp nơi rộn vang tiếng hát “Xếp bút nghiên lên đường tranh đấu…”, “Anh có nghe tiếng súng vang sông núi miền Nam, rền đất nước Việt Nam. Ta muốn băng mình tới phương Nam xé xác quân tham tàn…”.
Nhanh nhất là Hà Nội, chỉ sau 3 ngày tức là ngày 26-9-1945, đoàn tàu Nam tiến đã khởi hành từ ga Hà Nội với một chi đội (trung đoàn) gồm các đại đội Hà Nội, Bắc Sơn, Bắc Cạn (một bộ phận của đội Tuyên truyền giải phóng quân tiến về Hà Nội trong cuộc khởi nghĩa ngày 19-8). Các anh đều đội mũ ca-lô có đính quân hiệu sao vàng thêu trên nỉ đỏ… khuôn mặt các anh thật trẻ trung và bừng sáng niềm tự hào và quyết tâm nung nấu. Đoàn tàu vào Thanh Hoá rồi Vinh (Nghệ An), mỗi nơi bổ sung thêm một đại đội.
Trưa ngày 29-9, đoàn tàu Nam tiến đầu tiên dừng khá lâu ở ga Huế. Cả xứ Huế rộn lên, không chỉ để tiễn đưa một đại đội thuộc chi đội Trần Cao Vân theo đoàn Bắc Nam tiến, mà còn là cuộc đón tiếp hết sức nồng nhiệt, chứa chan tình cảm của nam, nữ học sinh, thanh niên Huế, của các bà mẹ, bà chị tiểu thương chợ Đông Ba, An Cựu, Bến Ngự, Thành Nội và các thôn, phường ngoại thành Huế dành cho đoàn quân Nam tiến.
Phong trào “Nam tiến” lôi cuốn hàng chục vạn thanh niên lên đường vào Nam chiến đấu. Các tỉnh ở Bắc Bộ, Trung Bộ đều thành lập những chi đội, tiểu đoàn khẩn cấp vào Nam. Đầu tháng 11-1945, chi đội 1 quân Nam tiến Hải Phòng lên đường vào Nam đánh giặc. Thành phố Huế gửi vào Nam 3 chi đội, Quảng Nam gửi 5 chi đội, riêng Quảng Ngãi gửi khoảng 15.000 chiến sĩ, Thủ đô Hà Nội gửi 10.000 đoàn viên, thanh niên ưu tú tiếp sức cho Nam Bộ đánh giặc. Nam Định gửi 2 đại đội, Ninh Bình gửi 3 đại đội, Hà Nam gửi 1 tiểu đoàn cùng 50 cán bộ chi viện cho Nam Bộ…
Phong trào xung phong vào Nam đánh giặc đi vào từng gia đình, cuốn hút tình cảm của mọi lứa tuổi. Gia đình ông Hoàng Tâm Tích ở Hải Phòng đã tình nguyện cho cả 3 người con trai vào Nam chiến đấu trong đợt đầu tiên. Tấm gương em thiếu niên Hà Nội trốn trong toa than tàu hoả để theo các chiến sỹ vào Nam đánh giặc và đã hy sinh anh dũng ở mảnh đất miền Trung với chiếc bát sắt đeo bên mình. Không biết tên em, đồng đội gọi em: “Chiến sĩ bát sắt”. Noi gương em, thiếu niên Hà Nội đã lập đội tình báo chiến đấu trong lòng địch với tên gọi Đội Bát Sắt.
Đoàn Nam tiến đầu tiên đã tham gia chiến đấu ở miền Đông Nam Bộ, đánh giặc ở cầu Bình Lợi, Xuân Lộc, sau ra chiến đấu ở đường 21 rồi Nha Trang. Khi mặt trận Sài Gòn - Gia Định vỡ, giặc lấn lên Tây Nguyên và các tỉnh phía Nam Trung Bộ, các chi đội Nam tiến nhập với quân chủ lực địa phương, chiến đấu ở các mặt trận các tỉnh cực Nam Trung Bộ, Nha Trang, Buôn Ma Thuột là các chi đội thuộc các tỉnh: Hưng Yên, Nam Định, Hải Dương, Thái Bình, Thanh Hoa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam và các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Kiến An, Đông Triều… Hai chi đội Quảng Ngãi và Bình Định đã tác chiến ở Xuân Lộc, Sài Gòn, Nam Tây Nguyên.
Lực lượng Nam tiến vào chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ từ cuối tháng 9 năm 1945 đến đầu năm 1946 đã góp phần quan trọng làm tăng sức mạnh chiến đấu cho miền Nam ruột thịt, cùng quân dân Nam Bộ giam chân thực dân Pháp, tạo điều kiện để ta củng cố chính quyền cách mạng, xây dựng chế độ mới, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến toàn quốc.
Nhiều cán bộ chiến sĩ các đoàn quân Nam tiến đã tiếp tục ở lại miền Nam chiến đấu suốt 9 năm, nhiều người đã ngã xuống trên chiến trường, nhiều người đã trở thành những cán bộ chỉ huy nòng cốt của lực lượng vũ trang cách mạng Nam Bộ và Nam Trung Bộ. Mãi đến sau Hội nghị Genève 1954, các chiến sĩ này mới quay trở lại đất Bắc, trong các đoàn quân tập kết.
Tháng 2 năm 1946, thay mặt Chính phủ và đồng bào cả nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Nam Bộ danh hiệu vẻ vang: “Thành đồng Tổ quốc”.
Nguồn: Xưa & Nay, số 245, 10/2005, tr 32, 33