Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập
Nguồn nhân lực của mỗi quốc gia được xem xét dưới hai góc độ là số lượng và chất lượng của bộ phận dân cư tham gia vào hoạt động kinh tế - xã hội. Ở Việt Nam, theo cách xác định của Tổng cục thống kê, nguồn nhân lực xã hội chủ yếu là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động. Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện bằng các chỉ tiêu về thế lực, trình độ chuyên môn, tác phong nghề nghiệp, v..v..
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội; các quốc gia lớn, họ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế và kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Tình hình đó đã tạo nên thời cơ thuận lợi để các nước có điều kiện phát triển; sự hợp tác giữa các nước ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng trở nên gay gắt…
Thành quả trong nhiều năm qua của nền giáo dục của chúng ta là đã tạo nên một đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức cơ bản vững chắc và gắn bó chặt chẽ với thực tiến. Họ đã có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời đã góp phần đào tạo bồi dưỡng nên một thế hệ cán bộ khoa học – công nghệ trẻ kế tiếp, giàu trí tuệ và năng động. Đội ngũ này là lực lượng nòng cốt đáng tin cậy, đã và đang tích cực góp phần tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước cơ bản theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người là nguồn lực cơ bản và quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế. Người lao động là chủ thể của quá trình sản xuất, là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất. Người lao động với sức khoẻ, trí tuệ, kinh nghiệm, tay nghề, có động lực và nhiệt tình, được tổ chức chặt chẽ là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. So với nguồn lực tự nhiên, nguồn lực lao động với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi trội, là nguồn lực vô tận, không những không bị cạn kiệt mà còn tăng lên nếu được bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý.
Trong giai đoạn hiện nay, khi khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ thì nguồn nhân lực chất lượng cao được coi là một trong những nhân tố rất quan trọng, tạo nên năng lực cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế. Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia tuy nghèo về tài nguyên thiên nhiên (như Nhật Bản, Hàn Quốc,…) nhưng có đội ngũ lao động lành nghề nên năng lực cạnh tranh của nền kinh tế rất cao, trong khi đó nhiều quốc gia khác có nguồn lực tài nguyên tương đối dồi dào (như một số nước Nam Á, châu Phi) nhưng chất lượng nguồn nhân lực thấp nên kém hơn trong quá trình cạnh tranh.
Như vậy, sự phát triển kinh tế và năng lực cạnh tranh mỗi quốc gia không chỉ phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, vốn, khoa học và công nghệ… mà phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực là nguồn lực của mọi nguồn lực, tài nguyên của mọi tài nguyên. Vì vậy, để phát triển kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh, các quốc gia cần phải quan tâm, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn nhân lực.
Công nghiệp hoá (CNH) là giai đoạn phát triển tất yếu của mọi quốc gia từ một nền kinh tế nông nghiệp, kém phát triển vươn lên trở thành một nền kinh tế tiên tiến, hiện đại. Việt Nam đi lên CNXH từ một nền kinh tế tiểu nông, sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Vì vậy, tiến hành CNH là tất yếu khách quan nhằm xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH. Đây là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.
Ở thế kỷ XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Anh và các Tây Âu thì CNH được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Nước ta tiến hành CNH trong điều kiện thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, một số nước đã bắt đầu phát triển kinh tế tri thức. Với cách mạng khoa học – công nghệ, tri thức khoa học đã trở thành sức mạnh, nhanh chóng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vì thế, công nghiệp hoá ở nước ta phải gắn liền với hiện đại hoá (HĐH), nghĩa là tranh thủ ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại trong quá trình CNH. Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian theo lối “đi tắt, đón đầu”, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. CNH, HĐH không bó hẹp trong phạm vi trình độ lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí, mà bao hàm cả về hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao.
CNH, HĐH ở nước ta phải gắn với phát triển kinh tế tri thức. Ngày nay, khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, những phát minh khoa học được ứng dụng nhanh và rộng rãi vào trong sản xuất. Với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, thông tin và tri thức trở thành yếu tố cốt lõi của cả hệ thống sản xuất xã hội. Vì vậy, chúng ta phải tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Chúng ta tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh toàn cầu hoá, khi nước ta chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan của thời đại, lôi cuốn hầu hết các nước, làm tăng thêm sức ép cạnh tranh trong tất cả các lĩnh vực từ sản xuất lưu thông đến đầu tư, khoa học – công nghệ, dẫn đến các hình thức hợp tác song phương, đa phương giữa các nước, các khu vực có trình độ kinh tế và thể chế chính trị khác nhau.
Toàn cầu hoá tạo ra cơ hội phát triển cho các quốc gia, dân tộc. Trong quá trình hội nhập quốc tế, các nước đang phát triển có thể tranh thủ khai thác vốn, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức, quản lý… để phát triển kinh tế bằng các hình thức liên kết, liên doanh, mua bán, chuyển giao công nghệ. Quá trình toàn cầu hoá mở ra nhiều cơ hội cho các nước đang phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Cạnh tranh kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ… giữa các nước ngày càng trở nên gay gắt.
Nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, chúng ta nhất thiết phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao bởi lẽ :
Thứ nhất, phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là điều kiện thiết yếu để thực hiện được quá trình chuyển giao công nghệ. Hiện nay trên thế giới, nhiều nước đã bước vào nền kinh tế hậu công nghiệp, nền kinh tế tri thức, trong khi đó Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa nước ta với nhiều nước là rất lớn. Do vậy, chúng ta cần nhanh chóng chuyển giao công nghệ theo hướng đi thẳng vào công nghệ hiện đại để có thể đi trước đón đầu, nhanh chóng theo kịp các nước. Để có thể thực hiện chuyển giao công nghệ một cách hiệu quả và ứng dụng công nghệ tiên tiến nhập ngoại cần phải có một đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ, đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề.
Thứ hai, nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao sẽ thu hút được các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài để khắc phục tình trạng thiếu vốn trong nước. Để tiến hành CNH, HĐH đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực tài chính không nhỏ, nhưng chúng ta đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại vừa thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế chưa lâu, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn rất hạn chế. Do đó, để phát triển kinh tế và thực hiện CNH, HĐH chúng ta phải thu hút được vốn đầu tư nước ngoài. Phát triển nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao là điều kiện để thu hút các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài nhằm khắc phục tình trạng thiếu vốn trong nước.
Thứ ba, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập thế giới. Với số lượng dân cư tương đối đông, nước ta được đánh giá là nước có nguồn lực lao động rất dồi dào. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và toàn cầu hoá, lợi thế nguồn nhân lực theo số đông đang mất dần. Vì vậy, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành đòi hỏi bức thiết, vấn đề sống còn trước thách thức của cạnh tranh kinh tế toàn cầu.
Như vậy, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và của kinh tế tri thức, với xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ trên thế giới, chưa bao giờ chiến lược con người, phát triển nguồn nhân lực lại được mọi quốc gia quan tâm như hiện nay.
Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới nhằm sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu này cần huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, trong đó vai trò đặc biệt quan trọng thuộc về nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước” (2).
Phát triển nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để thực hiện CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, nguồn nhân lực ấy không sẵn có mà phải được chuẩn bị, đào tạo từ nghề nhà trường cung cấp, phải được bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn hết sức sôi động của thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập thế giới.
Giáo dục phổ thông, đại học và trên đại học đều có vai trò hết sức quan trọng đối với việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Thực tế các nước trên thế giới cho thấy, một quốc gia muốn đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, trước hết phải có nền giáo dục phát triển đồng bộ, từ giáo dục phổ thông đến giáo dục đại học và trên đại học. Các nước như Hàn Quốc, Singapo, Hồng Kông… thường đạt mức độ phổ cập tiểu học trước khi các nền kinh tế đó cất cánh, đồng thời các nước đó cũng có một nên giáo dục đại học và trên đại học rất phát triển.Có thể nói, giáo dục là điều kiện cần, điều kiện không thể thiếu được đối với sự phát triển kinh tế và phát triển giáo dục, phát huy hiệu quả giáo dục là cách thức để thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình đổi mới đất nước, chúng ta ngày càng nhận thức sâu sắc hơn vị trí, vai trò hết sức quan trọng của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta chỉ rõ : “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng và phát triển con người Việt Nam” (3).
Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò rất quan trọng, trực tiếp trang bị cho con người về mọi mặt : đào tạo về chuyên môn, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, thể chất - những mặt cơ bản, không thể thiếu được đối với người lao động. Giáo dục và đào tạo có tác động mạnh mẽ, tích cực đến tính chủ động, óc khám phá, khả năng sáng tạo; góp phần bồi dưỡng thế giới quan và phương pháp luận khoa học, trau dồi lý luận và phương pháp; trang bị tri thức khoa học và kỹ năng nghề nghiệp; giáo dục lý tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp và nâng cao tính công dân cho đội ngũ lao động mới.
Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho đất nước là nhiệm vụ của toàn xã hội, của ngành giáo dục – đào tạo, nhưng trước hết là của các trường đại học và các cơ sở đào tạo khác. Nhằm góp phần tích cực vào việc phát triển nguồn nhân lựu cho đất nước, quá trình đổi mới đào tạo trong các trường đại học cần được thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ, nhưng về cơ bản cần chú trọng vào các nội dung sau :
Thứ nhất, thực hiện chương trình hành động quốc gia về đào tạo gắn với nhu cầu xã hội. Các trường đại học cần thực hiện chủ trương “đào tạo cái xã hội cần chứ không đào tạo cái nhà trường có”; đào tạo đúng những ngành nghề mà xã hội có nhu cầu. Sinh viên ra trường phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản về phẩm chất, năng lực, chuyên môn và kỹ thuật nghề nghiệp. Giữa nhà trường và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội cần có sự phối hợp chặt chẽ trong đào tạo và sử dụng nguồn lực.
Thứ hai, tích cực đổi mới nội dung chương trình đào tạo nhằm làm cho chương trình ngày càng trở nên khoa học, hiện đại và thiết thực. Cần xây dựng, kết cấu nội dung chương trình theo hướng tinh gọn, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của ngành đào tạo; cắt giảm các môn chung (môn đại cương, môn cơ bản, cơ sở ngành) và tăng thời lượng cho các môn chuyên ngành; giảm thời gian dạy lý thuyết, tăng thời gian thảo luận, thực hành. Gắn với đổi mới chương trình đào tạo là đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới công tác quản lý và tăng cường điều kiện cơ sở vật chất phục vụ hoạt động đào tạo.
Thứ ba, tăng cường công tác phát triển đội ngũ giảng viên. Trong các trường đại học, giảng viên là nhân tố hàng đầu để nâng cao chất lượng đào tạo. Họ là những người trực tiếp truyền thụ tri thức khoa học và giáo dục đối tượng được đào tạo, tham gia vào quá trình đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy nhằm thực hiện mục đích, yêu cầu đào tạo. Để xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên, các trường đại học cần có những chế độ, chính sách phù hợp đối với giảng viên trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ.
Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào tạo là đòi hỏi tất yếu nhằm tạo ra cho đất nước những con người có đầy đủ các phẩm chất cơ bản của con người hiện đại cả về mặt tài năng và trí tuệ lẫn về mặt tư tưởng, đạo đức và tác phong, những người hiền tài và sáng tạo, góp phần phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.
Chú thích :
(1) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Hà nội 2011, tr 106.
(2) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Hà nội 2011, tr 41.
(3) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Hà nội 2011, tr 77.








