Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ hai, 16/12/2013 22:19 (GMT+7)

Phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Nguồn nhân lực của mỗi quốc gia được xem xét dưới hai góc độ là số lượng và chất lượng của bộ phận dân cư tham gia vào hoạt động kinh tế - xã hội. Ở Việt Nam, theo cách xác định của Tổng cục thống kê, nguồn nhân lực xã hội chủ yếu là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động. Chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện bằng các chỉ tiêu về thế lực, trình độ chuyên môn, tác phong nghề nghiệp, v..v..

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền kinh tế và đời sống xã hội; các quốc gia lớn, họ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế và kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Tình hình đó đã tạo nên thời cơ thuận lợi để các nước có điều kiện phát triển; sự hợp tác giữa các nước ngày càng tăng nhưng cạnh tranh cũng trở nên gay gắt…

Thành quả trong nhiều năm qua của nền giáo dục của chúng ta là đã tạo nên một đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức cơ bản vững chắc và gắn bó chặt chẽ với thực tiến. Họ đã có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời đã góp phần đào tạo bồi dưỡng nên một thế hệ cán bộ khoa học – công nghệ trẻ kế tiếp, giàu trí tuệ và năng động. Đội ngũ này là lực lượng nòng cốt đáng tin cậy, đã và đang tích cực góp phần tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước cơ bản theo hướng hiện đại.

Nguồn lực con người là nguồn lực cơ bản và quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế. Người lao động là chủ thể của quá trình sản xuất, là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất. Người lao động với sức khoẻ, trí tuệ, kinh nghiệm, tay nghề, có động lực và nhiệt tình, được tổ chức chặt chẽ là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. So với nguồn lực tự nhiên, nguồn lực lao động với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi trội, là nguồn lực vô tận, không những không bị cạn kiệt mà còn tăng lên nếu được bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý.

Trong giai đoạn hiện nay, khi khoa học và công nghệ phát triển mạnh mẽ thì nguồn nhân lực chất lượng cao được coi là một trong những nhân tố rất quan trọng, tạo nên năng lực cạnh tranh tổng thể của nền kinh tế. Thực tế cho thấy, nhiều quốc gia tuy nghèo về tài nguyên thiên nhiên (như Nhật Bản, Hàn Quốc,…) nhưng có đội ngũ lao động lành nghề nên năng lực cạnh tranh của nền kinh tế rất cao, trong khi đó nhiều quốc gia khác có nguồn lực tài nguyên tương đối dồi dào (như một số nước Nam Á, châu Phi) nhưng chất lượng nguồn nhân lực thấp nên kém hơn trong quá trình cạnh tranh.

Như vậy, sự phát triển kinh tế và năng lực cạnh tranh mỗi quốc gia không chỉ phụ thuộc vào các nguồn tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý, vốn, khoa học và công nghệ… mà phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao. Nguồn nhân lực là nguồn lực của mọi nguồn lực, tài nguyên của mọi tài nguyên. Vì vậy, để phát triển kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh, các quốc gia cần phải quan tâm, chăm lo đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý, có hiệu quả nguồn nhân lực.

Công nghiệp hoá (CNH) là giai đoạn phát triển tất yếu của mọi quốc gia từ một nền kinh tế nông nghiệp, kém phát triển vươn lên trở thành một nền kinh tế tiên tiến, hiện đại. Việt Nam đi lên CNXH từ một nền kinh tế tiểu nông, sản xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Vì vậy, tiến hành CNH là tất yếu khách quan nhằm xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của CNXH. Đây là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.

Ở thế kỷ XVIII, khi cách mạng công nghiệp được tiến hành ở Anh và các Tây Âu thì CNH được hiểu là quá trình thay thế lao động thủ công bằng lao động sử dụng máy móc. Nước ta tiến hành CNH trong điều kiện thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, một số nước đã bắt đầu phát triển kinh tế tri thức. Với cách mạng khoa học – công nghệ, tri thức khoa học đã trở thành sức mạnh, nhanh chóng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vì thế, công nghiệp hoá ở nước ta phải gắn liền với hiện đại hoá (HĐH), nghĩa là tranh thủ ứng dụng rộng rãi những thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thời đại trong quá trình CNH. Con đường CNH, HĐH của nước ta cần và có thể rút ngắn thời gian theo lối “đi tắt, đón đầu”, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. CNH, HĐH không bó hẹp trong phạm vi trình độ lực lượng sản xuất đơn thuần, kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công thành lao động cơ khí, mà bao hàm cả về hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội, được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao.

CNH, HĐH ở nước ta phải gắn với phát triển kinh tế tri thức. Ngày nay, khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, những phát minh khoa học được ứng dụng nhanh và rộng rãi vào trong sản xuất. Với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, thông tin và tri thức trở thành yếu tố cốt lõi của cả hệ thống sản xuất xã hội. Vì vậy, chúng ta phải tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá.

Chúng ta tiến hành CNH, HĐH trong bối cảnh toàn cầu hoá, khi nước ta chính thức trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Toàn cầu hoá là một xu thế khách quan của thời đại, lôi cuốn hầu hết các nước, làm tăng thêm sức ép cạnh tranh trong tất cả các lĩnh vực từ sản xuất lưu thông đến đầu tư, khoa học – công nghệ, dẫn đến các hình thức hợp tác song phương, đa phương giữa các nước, các khu vực có trình độ kinh tế và thể chế chính trị khác nhau.

Toàn cầu hoá tạo ra cơ hội phát triển cho các quốc gia, dân tộc. Trong quá trình hội nhập quốc tế, các nước đang phát triển có thể tranh thủ khai thác vốn, công nghệ, kinh nghiệm tổ chức, quản lý… để phát triển kinh tế bằng các hình thức liên kết, liên doanh, mua bán, chuyển giao công nghệ. Quá trình toàn cầu hoá mở ra nhiều cơ hội cho các nước đang phát triển nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố bất bình đẳng, gây khó khăn, thách thức lớn cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển. Cạnh tranh kinh tế - thương mại, giành giật các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, nguồn vốn, công nghệ… giữa các nước ngày càng trở nên gay gắt.

Nhằm đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, chúng ta nhất thiết phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao bởi lẽ :

Thứ nhất, phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là điều kiện thiết yếu để thực hiện được quá trình chuyển giao công nghệ. Hiện nay trên thế giới, nhiều nước đã bước vào nền kinh tế hậu công nghiệp, nền kinh tế tri thức, trong khi đó Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa nước ta với nhiều nước là rất lớn. Do vậy, chúng ta cần nhanh chóng chuyển giao công nghệ theo hướng đi thẳng vào công nghệ hiện đại để có thể đi trước đón đầu, nhanh chóng theo kịp các nước. Để có thể thực hiện chuyển giao công nghệ một cách hiệu quả và ứng dụng công nghệ tiên tiến nhập ngoại cần phải có một đội ngũ cán bộ khoa học có trình độ, đội ngũ kỹ thuật viên và công nhân lành nghề.

Thứ hai, nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao sẽ thu hút được các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài để khắc phục tình trạng thiếu vốn trong nước. Để tiến hành CNH, HĐH đòi hỏi phải có một nguồn nhân lực tài chính không nhỏ, nhưng chúng ta đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lại vừa thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế chưa lâu, tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn rất hạn chế. Do đó, để phát triển kinh tế và thực hiện CNH, HĐH chúng ta phải thu hút được vốn đầu tư nước ngoài. Phát triển nguồn nhân lực dồi dào, chất lượng cao là điều kiện để thu hút các nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài nhằm khắc phục tình trạng thiếu vốn trong nước.

Thứ ba, nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao là điều kiện để nâng cao năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập thế giới. Với số lượng dân cư tương đối đông, nước ta được đánh giá là nước có nguồn lực lao động rất dồi dào. Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và toàn cầu hoá, lợi thế nguồn nhân lực theo số đông đang mất dần. Vì vậy, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao trở thành đòi hỏi bức thiết, vấn đề sống còn trước thách thức của cạnh tranh kinh tế toàn cầu.

Như vậy, với sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ và của kinh tế tri thức, với xu thế toàn cầu hoá đang diễn ra vô cùng mạnh mẽ trên thế giới, chưa bao giờ chiến lược con người, phát triển nguồn nhân lực lại được mọi quốc gia quan tâm như hiện nay.

Việt Nam đang trong quá trình đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới nhằm sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, để đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện được mục tiêu này cần huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước, trong đó vai trò đặc biệt quan trọng thuộc về nguồn nhân lực chất lượng cao. Phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “Phát triển, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước” (2).

Phát triển nguồn nhân lực là điều kiện tất yếu để thực hiện CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức và hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, nguồn nhân lực ấy không sẵn có mà phải được chuẩn bị, đào tạo từ nghề nhà trường cung cấp, phải được bồi dưỡng, rèn luyện trong thực tiễn hết sức sôi động của thời kỳ đổi mới, mở cửa và hội nhập thế giới.

Giáo dục phổ thông, đại học và trên đại học đều có vai trò hết sức quan trọng đối với việc đào tạo, phát triển nguồn nhân lực. Thực tế các nước trên thế giới cho thấy, một quốc gia muốn đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cao, trước hết phải có nền giáo dục phát triển đồng bộ, từ giáo dục phổ thông đến giáo dục đại học và trên đại học. Các nước như Hàn Quốc, Singapo, Hồng Kông… thường đạt mức độ phổ cập tiểu học trước khi các nền kinh tế đó cất cánh, đồng thời các nước đó cũng có một nên giáo dục đại học và trên đại học rất phát triển.Có thể nói, giáo dục là điều kiện cần, điều kiện không thể thiếu được đối với sự phát triển kinh tế và phát triển giáo dục, phát huy hiệu quả giáo dục là cách thức để thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế.

Trong quá trình đổi mới đất nước, chúng ta ngày càng nhận thức sâu sắc hơn vị trí, vai trò hết sức quan trọng của giáo dục và đào tạo đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta chỉ rõ : “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng và phát triển con người Việt Nam” (3).

Giáo dục và đào tạo có vị trí, vai trò rất quan trọng, trực tiếp trang bị cho con người về mọi mặt : đào tạo về chuyên môn, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, thẩm mỹ, thể chất - những mặt cơ bản, không thể thiếu được đối với người lao động. Giáo dục và đào tạo có tác động mạnh mẽ, tích cực đến tính chủ động, óc khám phá, khả năng sáng tạo; góp phần bồi dưỡng thế giới quan và phương pháp luận khoa học, trau dồi lý luận và phương pháp; trang bị tri thức khoa học và kỹ năng nghề nghiệp; giáo dục lý tưởng chính trị, đạo đức nghề nghiệp và nâng cao tính công dân cho đội ngũ lao động mới.

Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho đất nước là nhiệm vụ của toàn xã hội, của ngành giáo dục – đào tạo, nhưng trước hết là của các trường đại học và các cơ sở đào tạo khác. Nhằm góp phần tích cực vào việc phát triển nguồn nhân lựu cho đất nước, quá trình đổi mới đào tạo trong các trường đại học cần được thực hiện một cách toàn diện, đồng bộ, nhưng về cơ bản cần chú trọng vào các nội dung sau :

Thứ nhất, thực hiện chương trình hành động quốc gia về đào tạo gắn với nhu cầu xã hội. Các trường đại học cần thực hiện chủ trương “đào tạo cái xã hội cần chứ không đào tạo cái nhà trường có”; đào tạo đúng những ngành nghề mà xã hội có nhu cầu. Sinh viên ra trường phải đáp ứng được các yêu cầu cơ bản về phẩm chất, năng lực, chuyên môn và kỹ thuật nghề nghiệp. Giữa nhà trường và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội cần có sự phối hợp chặt chẽ trong đào tạo và sử dụng nguồn lực.

Thứ hai, tích cực đổi mới nội dung chương trình đào tạo nhằm làm cho chương trình ngày càng trở nên khoa học, hiện đại và thiết thực. Cần xây dựng, kết cấu nội dung chương trình theo hướng tinh gọn, phù hợp với mục tiêu, yêu cầu của ngành đào tạo; cắt giảm các môn chung (môn đại cương, môn cơ bản, cơ sở ngành) và tăng thời lượng cho các môn chuyên ngành; giảm thời gian dạy lý thuyết, tăng thời gian thảo luận, thực hành. Gắn với đổi mới chương trình đào tạo là đổi mới phương pháp giảng dạy, đổi mới công tác quản lý và tăng cường điều kiện cơ sở vật chất phục vụ hoạt động đào tạo.

Thứ ba, tăng cường công tác phát triển đội ngũ giảng viên. Trong các trường đại học, giảng viên là nhân tố hàng đầu để nâng cao chất lượng đào tạo. Họ là những người trực tiếp truyền thụ tri thức khoa học và giáo dục đối tượng được đào tạo, tham gia vào quá trình đổi mới nội dung và phương pháp giảng dạy nhằm thực hiện mục đích, yêu cầu đào tạo. Để xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên, các trường đại học cần có những chế độ, chính sách phù hợp đối với giảng viên trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ.

Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào tạo là đòi hỏi tất yếu nhằm tạo ra cho đất nước những con người có đầy đủ các phẩm chất cơ bản của con người hiện đại cả về mặt tài năng và trí tuệ lẫn về mặt tư tưởng, đạo đức và tác phong, những người hiền tài và sáng tạo, góp phần phát triển nguồn nhân lực trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

Chú thích :

(1)           Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Hà nội 2011, tr 106.

(2)           Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Hà nội 2011, tr 41.

(3)           Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia Hà nội 2011, tr 77.


Xem Thêm

Tạo thuận lợi hơn cho công tác tổ chức hội nghị, hội thảo quốc tế
Dự thảo Quyết định điều chỉnh, sửa đổi Quyết định 06/2020/QĐ-TTg ngày 21/02/2020 của Thủ tướng Chính phủ về tổ chức, quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế tại Việt Nam nhằm giải quyết những vướng mắc trong quy định hiện hành, tăng cường phân cấp và đơn giản hóa thủ tục hành chính.
Để trí thức khoa học tham gia sâu hơn vào công tác Mặt trận
Hội thảo khoa học tại Hà Nội ngày 6/11/2025 đánh giá thực trạng sự tham gia, phối hợp của Liên hiệp Hội Việt Nam trong các hoạt động chung của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giai đoạn 2015-2025. Các chuyên gia thẳng thắn chỉ ra những thành tựu, hạn chế và đề xuất giải pháp cho giai đoạn tới.
Còn nhiều rào cản trong thực thi bộ tiêu chuẩn ESG
Hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ (DNVVN) nói chung và DNVVN nói riêng trên địa bàn Thành phố Hà Nội gặp nhiều rào cản và thách thức trong thực thi tiêu chuẩn môi trường, xã hội và quản trị (ESG).
Đắk Lắk: Góp ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng
Ngày 13/6, Liên hiệp hội tỉnh đã tổ chức góp ý kiến đối với dự thảo kế hoạch tổ chức hội nghị lấy ý kiến văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng và dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2025 – 2030.
Hà Giang: Góp ý dự thảo sửa đổi Luật Chất lượng sản phẩm
Ngày 13/6, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật (Liên hiệp hội) tỉnh đã tổ chức hội thảo góp ý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hoá (CLSPHH). Tham dự hội thảo có lãnh đạo đại diện các Sở, ban ngành của tỉnh, các hội thành viên Liên hiệp hộivà các chuyên gia TVPB.
Đắk Lắk: Hội nghị phản biện Dự thảo Nghị quyết về bảo đảm thực hiện dân chủ cơ sở
Sáng ngày 27/5/2025, tại trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Đắk Lắk (Liên hiệp hội) đã diễn ra Hội nghị phản biện và góp ý đối với Dự thảo Nghị quyết của Hội đồng nhân dân (HĐND) tỉnh Đắk Lắk về việc quyết định các biện pháp bảo đảm thực hiện dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh.
Phú Thọ: Lấy ý kiến về Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Sáng ngày 20/5/2025, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú Thọ (Liên hiệp hội) tổ chức hội thảo lấy ý kiến của đội ngũ trí thức, chuyên gia, nhà khoa học về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.

Tin mới

Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo
Sáng ngày 05/12, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Nữ trí thức Việt Nam (VAFIW) tổ chức Hội thảo “Phát huy vai trò đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ trong đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo”.
Các nhà khoa học giao lưu, thuyết giảng tại trường đại học
Từ trí tuệ nhân tạo (AI), vật liệu bán dẫn hữu cơ, công nghệ y học đến biến đổi khí hậu và đa dạng sinh học… những buổi trò chuyện không chỉ mở rộng tri thức chuyên sâu mà còn truyền cảm hứng mạnh mẽ về hành trình chinh phục khoa học cho hàng nghìn sinh viên và giảng viên cả nước.
Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất về cơ cấu, số lượng người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XVI
Ngày 4/12, tại Hà Nội, Đoàn Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam tổ chức Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất để thảo luận về cơ cấu, thành phần, số lượng người của các cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương được giới thiệu ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XVI.
Triển khai thực hiện các văn bản mới của Trung ương về về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng
Chiều 4/12 tại Hà Nội, Đảng ủy Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiêp Hội Việt Nam) đã tổ chức hội nghị quán triệt và triển khai Quy định 367-QĐ/TW và Hướng dẫn số 05 - HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương về một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng.
Phổ biến những điểm mới các Luật, Nghị định
Sáng 4/12/2025, tại Hà Nội, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội thảo Phổ biến các văn bản tới các Hội thành viên, Liên hiệp Hội địa phương và Tổ chức khoa học và công nghệ. Đây là hoạt động thường niên của Liên hiệp Hội Việt Nam nhằm cập nhật thông tin, hướng dẫn nghiệp vụ cho các đơn vị trong cùng hệ thống.
Lễ Khởi động Dự án Hỗ trợ trồng cây lâm nghiệp cảnh quan và Phát triển nông lâm kết hợp tại tỉnh Gia Lai
Ngày 01/12/2025, tại tỉnh Gia Lai, Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp cùng Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Gia Lai và tổ chức Face the Future (Hà Lan) tổ chức Lễ Khởi động Dự án Hỗ trợ Trồng cây Lâm nghiệp Cảnh quan và Phát triển Nông lâm kết hợp tại tỉnh Gia Lai (GLAD).
AI - Đạo đức và an toàn trong kỷ nguyên mới
Chiều 2/12 tại Hà Nội, mở đầu chuỗi tọa đàm “Khoa học vì cuộc sống” của Tuần lễ Khoa học Công nghệ VinFuture 2025 đã diễn ra buổi tọa đàm với chủ đề: “Trí tuệ nhân tạo (AI) vì nhân loại - Đạo đức và an toàn AI trong kỷ nguyên mới”. với thông điệp “Cùng vươn mình - Cùng thịnh vượng” tiếp tục truyền cảm hứng đổi mới vì con người.
Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam chúc mừng 50 năm Quốc khánh nước CHDCND Lào
Nhân dịp kỷ niệm 50 năm Quốc khánh nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và 105 năm ngày sinh Chủ tịch Cay-xỏn Phôm-vi-hản, thay mặt Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bà Bùi Thị Minh Hoài - Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam đã gửi thư chúc mừng.