Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế tri thức ở nước ta hiện nay
1. Nguồn nhân lực chất lượng cao được hiểu là bộ phận lao động xã hội có trình độ học vấn và chuyên môn kĩ thuật cao; có kĩ năng lao động giỏi và có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo những tri thức, những kĩ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.
Để có nguồn nhân lực chất lượng cao đủ sức đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của kinh tế tri thức hiện nay, nguồn nhân lực phải đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
Người lao động phải được nâng cao về trình độ dân trí.
Người lao động phải có khả năng sáng tạo cao.
Người lao động phải có tinh thần tự giác ham muốn học hỏi.
Người lao động phải có khả năng thích ứng và có tính linh hoạt cao.
Nền sản xuất công nghiệp còn đòi hỏi ở người lao động phải có các năng lực cần thiết như: có kỷ luật tự giác, biết tiết kiệm nguyên vật liệu và thời gian, có tinh thần trách nhiệm, có tinh thần hợp tác và tác phong lao động công nghiệp, lương tâm nghề nghiệp,… nghĩa là phải có văn hóa lao động công nghiệp.
Mọi người lao động, dù lao động cơ bắp tay hay lao động trí óc đều cần có sức vóc thể chất tốt để duy trì và phát triển trí tuệ, để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn, biến tri thức thành sức mạnh vật chất.
2. Qua hơn 20 năm thực hiện quá trình đổi mới nền kinh tế và hiện nay nước ta đang từng bước phát triển nền kinh tế tri thức, chất lượng nguồn nhân lực đã có bước phát triển nhất định. Theo số liệu của cuộc điều tra dân số năm 2009, nước ta là một trong số ít quốc gia trong khu vực có tỷ lệ về cơ cấu độ tuổi của dân số và lao động khá lý tưởng (trên 50% số dân trong độ tuổi từ 15 – 60 (độ tuổi lao động) và 45% trong tổng số lao động có độ tuổi dưới 54). Tỷ lệ người lớn biết chữ và trẻ em trong độ tuổi đến trường khá cao so với nhiều nước trong khu vực (người không biết chữ khoảng dưới 3,5%). Lực lượng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở nước ta đã tăng từ 7,6% (năm 1986) lên gần 30% (năm 2007). Người lao động Việt Nam nhìn chung có những phẩm chất vượt trội như thông minh, cần cù, chịu khó, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao động, đặc biệt là kỹ năng sử dụng các công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi thế cạnh tranh quan trọng của nguồn nhân lực nước ta trong quá trình toàn cầu hóa và phát triển nền kinh tế tri thức.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của nền kinh tế tri thức thì chất lượng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay còn nhiều bất cập và hạn chế. Hiện nay, Việt Nam mới chỉ có thể đáp ứng được 35 đến 40% nhu cầu nhân sự bậc cao của các doanh nghiệp. Thị trường nhân sự cấp cao của Việt Nam đang đứng trước một nguy cơ khủng hoảng trầm trọng vì không đủ khả năng bắt kịp sự phát triển của nền kinh tế. Tỷ lệ giám đốc doanh nghiệp có trình độ thạc sỹ chỉ là 2,99% , đại học là 37,82%, và cao đẳng là 3,56% trong khi đó tỷ lệ có trình độ trung học chuyên nghiệp là 12,33% và cấp 3 trở xuống chiếm tới 43,30%.
Vì vậy, vấn đề quan trọng và cấp bách hiện nay để có nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, hội nhập kinh tế thế giới và phát triển kinh tế tri thức cần thực hiện các giải pháp sau đây:
Một là, nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xây dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong quá trình phát triển kinh tế tri thức và hội nhập vào nền kinh tế thế giới của nước ta hiện nay.
Hai là, làm tốt công tác quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Xây dựng và triển khai chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam từ nay đến năm 2020 và tầm nhìn 2030. Tuy nhiên, trước mắt cần có kế hoạch đột phá vào phát triển nhóm nhân lực chất lượng cao, đó là:
- Xây dựng, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý có năng lực quản lý giỏi và có phẩm chất đạo đức tốt bởi đây là lực lượng có ý nghĩa đầu tàu quan trọng lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ. Đây là một trong những nhiệm vụ vừa mang tính cấp bách, vừa có tầm chiến lược nhằm tạo ra lực lượng đầu đàn trong đội ngũ những người lao động, góp phần tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao của nước ta.
- Đào tạo công nhân kỹ thuật, đây là lực lượng quan trọng tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất.
Ba là, thực hiện cải cách mạnh mẽ hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hiện đại, góp phần đào tạo và xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế tri thức như: Tăng đầu tư ngân sách hơn nữa cho giáo dục và đào tạo; Thực hiện xã hội hóa giáo dục; Mở rộng quy mô và tăng nhanh tốc độ đào tạo; Thực hiện đào tạo theo nhu cầu của xã hội; Tiếp tục cải cách nội dung và phương pháp đào tạo; Tăng cường sự lãnh đạo và quản lý của Nhà nước đối với giáo dục, đào tạo.
Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nền kinh tế tri thức, trong thời gian tới giáo dục đại học Việt Nam cần có sự đổi mới, trước mắt nên chú trọng vào các vấn đề:
- Xây dựng một hệ thống các trường đại học có uy tín, có khả năng đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính – ngân hàng, công nghệ thông tin, kiểm toán và ngoại ngữ.
- Về cơ chế quản lý, thay đổi theo hướng tăng thêm tính chủ động cho các trường đại học nhất là tự chủ về tài chính.
- Về nội dung, chương trình: tăng cường thực hành nhằm phát triển tư duy sáng tạo của sinh viên, gắn lý thuyết trong sách vở với thực tiễn hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, cho phép các thành phần kinh tế trong và ngoài nước tham gia vào quá trình đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế phù hợp với luật pháp Việt Nam cũng là cần thiết trong bối cảnh hiện nay.
Bốn là,tiếp tục hoàn thiện và thực hiện có hiệu quả một số cơ chế, chính sách ưu đãi trong công tác đào tạo và thu hút nhân tài bằng chế độ và tiền lương, tiền thưởng, nhà ở, điều kiện và các phương tiện làm việc…. nhằm tránh tình trạng chảy máu chất xám như hiện nay.








