Phát triển kinh tế biển Việt Nam trong bối cảnh của Trung Quốc
Phát triển kinh tế Trung Quốc chủ yếu nhờ đóng góp của khu vực ven biển mà động lực chính của sự phát triển kinh tế tại khu vực ven biển Trung Quốc chính là các khu kinh tế tự do. Các khu kinh tế tự do ở Trung Quốc có vai trò như các cực tăng trưởng cho phát triển kinh tế và cơ sở thí điểm, là công cụ cho cải cách và cho chính sách mở cửa. Đặc điểm chung của các khu kinh tế tự do Trung Quốc là chính sách kinh tế đặc biệt và những mục tiêu đặc biệt ở một khu vực được xác định. Tuy nhiên, loại hình mở cửa ở Trung Quốc rất đa dạng. Các khu kinh tế tự do Trung Quốc được phân loại thành khu kinh tế tự do tổng hợp, khu kinh tế tự do chế tạo, khu kinh tế tự do dựa trên khoa học, thương mại và khu kinh tế tự do xuyên biên giới và rất nhiều các dạng khác nhau bao gồm các đặc khu kinh tế, các khu phát triển kinh tế công nghệ, các khu phát triển tổng hợp, các khu công nghiệp cao và mới, các khu thương mại tự do, các khu thương mại biên giới tự do, các tam giác tăng trưởng, khu chế xuất và đặc khu hành chính, kinh tế.
Trung Quốc tập trung nhiều vào nghiên cứu chiến lược biển, đặc biệt là chiến lược khai thác phát triển biểnĐông. Từ chiến lược khai thác biển Đông, Trung Quốc đã tiến tới xây dựng quy hoạch phát tnển kinh tế biển Đông (Trung ương có chiến lược và quy hoạch kinh tế biển toàn quốc, địa phương, đặc biệt là các tỉnh ven biển cũng đều có riêng các chiến lược và quy hoạch phát triển kinh tế biển). Đáng chú ý nhất là "Chiến lược 3 chữ M" hay "Chiến lược một trục hai cánh" là chiến lược hợp tác tiểu vùng Trung Quốc- ASEAN gồm trục "Hành lang kinh tế Nam Ninh - Singapo", cánh một là hợp tác tiểu vùng sông Mêkong mở rộng", cánh hai là" Hợp tác tiểu vùng Vịnh Bắc bộ mở rộng". "Hợp tác tiểu vùng Vịnh Bắc bộ mở rộng" là trọng điểm của chiến lược "Một cánh hai trục của Trung Quốc", bởi lẽ Trung Quốc coi trọng vị trí chiến lược của biển Đông, vì khống chế được biển Đông, tức là khống chế được cả vùng Đông Nam Á và cả con đường giao lưu huyết mạch từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương và cũng là khu vực giàu tài nguyên, đặc biệt là dầu khí.
Trong khuôn khổ "hợp tác tiểu vùng Vịnh Bắc bộ mở rộng" Trung Quốc đã xây dựng Khu kinh tế Vịnh Bắc bộ (Quảng Tây) như là một hạt nhân và nền tảng. Khu kinh tế này được thiết kế theo mô hình "Một trung tâm, ba thành phố cảng và hai thành phố vệ tinh, tạo nên một cấu trúc kinh tế mở rất mạnh ra Vịnh Bắc bộ, biển Đông và Thái Bình Dương. Khu kinh tế Vịnh Bắc bộ dựa lưng vào Đại Tây Nam, mặt hướng ra các nước Đông Nam Á, phía Đông liền kề với đồng bằng Chu Giang, nằm ở giao điểm của ba khu vực, là khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc- ASEAN, vành đai kinh tế vùng Chu Giang mở rộng và vành đai kinh tế Đại Tây Nam, là khu vực ven biển duy nhất của khu vực phía Tây, vừa là cầu nối, cơ sở quan trọng giữa Trung Quốc với các nước ASEAN, là cửa ngõ, tiền phương quan trọng trong mở cửa đối ngoại, đi ra các nước ASEAN, đi ra thế giới, ưu thế vị trí nổi trội, vị trí chiến lược rõ nét.
Mục tiêu tổng thể đẩy mạnh mở cửa phát triển khu kinh tế Vịnh Bắc bộ là lấy xây dựng bến cảng làm đầu tàu, lấy phát triển công nghiệp ven biển làm trọng điểm, lấy xây dựng cơ sở hạ tầng làm bảo đảm, lấy các dải đô thị làm chỗ dựa, lấy phát triển đổi mới làm động lực, ra sức phấn đấu trong thời kỳ 5 năm lần thứ XI, làm cho cơ sở hạ tầng của toàn vùng tương đối hoàn thiện, cảng biển có sức cạnh tranh tổng hợp mạnh, bố cục ngành nghề nhất thể hoá từng bước hình thành. Sau đó qua phấn đấu các năm tiếp theo, cuối cùng xây dựng vùng này thành các dải đô thị có ảnh hưởng nhất tại vùng phía Tây Nam Trung Quốc, trở thành trung tâm chế tạo, doanh vận, ngoại thương, thông tin, tiền tệ và giao lưu văn hoá trong khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc -ASEAN.
Việc Trung Quốc đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, trong đó trực tiếp nhất là phát triển khu kinh tế Vịnh Bắc bộ trong khuôn khổ " Hợp tác tiểu vùng Vịnh Bắc bộ mở rộng", tạo ra nhiều cơ hội và thách thức cho phát triển kinh tế biển Việt Nam. Trong số các cơ hội có hợp tác kinh tế nâng cao hiệu quả, tiếp thu công nghệ, mở rộng thị trường... Kinh tế biển Đông với sự phát triển năng động sẽ tăng sức hấp dẫn, thu hút các nguồn lực kinh tế thế giới vào khu vực này, điều đó có lợi cho tất cả các bên. Tuy nhiên, đối với nước ta cơ hội đó có trở thành hiện thực hay không tuỳ thuộc chủ yếu vào những nỗ lực trong nước. Nếu không có những điều chỉnh cần thiết, những chính sách thích hợp, nước ta sẽ chỉ đạt được những tiến bộ nhất định" tiến một bước trong các ngành kinh tế biển như tăng trưởng, đổi mới một số công nghệ, tăng xuất khẩu mà ít có tiến bộ đột phá. Mặt khác, nước ta có thể phải đối mặt với một số thách thức như: Các trung tâm kinh tế biển Trung Quốc, nhất là khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ với sức hấp dẫn cao của nó, thu hút mạnh dòng vốn đầu tư quốc tế từ đó ảnh hưởng xấu đến dòng vốn quốc tế vào Việt Nam; Đang dần xuất hiện một sự phân công lao động quốc tế trên dải ven biển phía Tây Biển Đông theo hướng khu kinh tế Vịnh Bắc bộ đóng vai trò trung tâm phát triển, tập trung các ngành nghề then chốt, giá trị gia tăng cao, hàm lượng công nghệ cao, đẩy các vùng kinh tế ở việt Nam vào vị trí cấp hai. Có thể sẽ có một làn sóng mới về chuyển dịch các ngành công nghiệp cấp thấp "lắp ráp" từ Trung Quốc vào các vùng biển Việt Nam; Sự gắn kết, liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp, giữa các khu kinh tế ven biển Việt Nam có thể sẽ bị ảnh hưởng trước sức hút của các doanh nghiệp, khu kinh tế ven biển Trung Quốc; Có thể xây ra một số trường hợp kinh tế biển là gánh nặng cho nền kinh tế như hậu quả của trào lưu xây nhà máy mía đường, xi măng công nghệ Trung Quốc ở Việt .Nam vừa qua...
Với một nền kinh tế biển không hoàn thiện, không nâng sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế, kinh tế biển khó ấo thể đáp ứng được mục tiêu bảo vệ chủ quyền, an ninh. Ngược lại, căng thẳng trong tranh chấp chủ quyền biển đảo trên biển Đông nếu không được xử lý tốt sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế biển Việt Nam, nhất là đối với các ngành dầu khí, hải sản, vận tải biển, du lịch biển.
Nước ta cần tạo ra lợi thế chiến lược như cần tính đến, hướng tới các lợi thế so sánh động, những lợi thế chiến lược. Tạo ra lợi thế chiến lược là nhiệm vụ chính của cả nước. Phát triển kinh tế biển càng đòi hỏi vai trò của Nhà nước trong việc tạo lập lợi thế chiến lược, vì đây là lĩnh vực đòi hỏi đầu tư lớn, rủi ro cao, tính độc quyền tự nhiên cao, cạnh tranh quốc tế mạnh hơn. Vai trò của nhà nước là vai trò hoạch định chiến lược, quy hoạch, quản lý, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, nhất là về thể chế kinh tế chứ không phải là vai trò người chủ trực tiếp kinh doanh. Đầu tư nhà nước tránh dàn trải.
Các giải pháp trọng tâm cần được xem xét ở cấp quốc gia lẫn cấp địa phương là làm tốt công tác quy hoạch phát triển, có biện pháp thực thi nghiêm túc. Bất cập đến nay trong quy hoạch phát triển kinh tế biển của Việt Nam thể hiện rõ trong hầu hết các lĩnh vực, từ quy hoạch hệ thống cảng biển, hệ thống hậu cần kinh tế biển, giao thông ven biển, đô thị ven biển…đến quy hoạch phát triển các ngành như du lịch biển, vận tải biển….
Cần nghiên cứu tiến hành các biện pháp mạnh bạo hơn như lập các khu kinh tế tự do ven biển với thể chế cởi mở hơn, lập các công ty lớn trong khai thác đánh bắt xa bờ. Đột phá trong cải cách hành chính, triển khai quản lý tổng hợp phát triển kinh tế biển. Thúc đẩy liên kết kinh tế giữa các vùng. Cổ vũ sáng kiến của doanh nghiệp, thúc đẩy tinh thần kinh doanh, hiện đại hóa doanh nghiệp, tăng cường liên kết hợp tác…
Thay vì trợ cấp cho các ngành, doanh nghiệp, hãy hỗ trợ để họ hiện đại hóa. Thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ biển, phát triển các ngành mới.
Trong quan hệ kinh tế đối ngoại cần tiếp tục nhấn mạnh chủ trương đa phương hóa. Về công nghệ, cần chú ý thúc đẩy tiếp cận công nghệ của các nước phát triển và cần có hệ thống chính sách thông thoáng để thu hút đầu tư từ các tập đoàn kinh tế biển quốc tế.
Nước ta khẳng định chủ quyền đối với Trường Sa và Hoàng Sa và vùng biển liên quan. Tuy nhiên, nếu biển Đông bất ổn sẽ cản trở đến phát triển kinh tế biển của Việt Nam . Trước mắt, cần đặt trọng tâm vào mục tiêu duy trì ổn định trên biển Đông, xử lý hòa bình các tranh chấp, lấy đó làm bối cảnh để phát huy nội lực và tăng cường thu hút ngoại lực để phát triển kinh tế biển.








