Phát triển khoa học, công nghệ phục vụ nông nghiệp hàng hóa
Để phát huy lợi thế, vượt qua thách thức đứng vững trong cạnh tranh, có nhiều con đường, trong đó áp dụng rộng rãi khoa học, công nghệ là giải pháp hiệu quả nhất. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khoá IX về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010 đã chỉ rõ: "Đẩy mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ cho sản xuất coi đây là khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn; trước hết cần tập trung vào công nghệ sinh học, chương trình giống cây trồng, vật nuôi, công nghệ bảo quản và công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản . Quan điểm này tiếp tục được nhấn mạnh trong Nghị quyết Trung ương 7 khoá X của Đảng (8-2008) về nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Triển khai thực hiện các Nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương chính sách và đầu tư kinh phí, đào tạo nguồn nhân lực để phát triển khoa học, công nghệ phục vụ sản xuất nông nghiệp trên tất cả các ngành, từ sản xuất đến bảo quản chế biến nông, lâm, thuỷ sản. Một trong những chủ trương lớn của Nhà nước ta trong những năm qua là xây dựng một nền nông nghiệp công nghệ cao, đáp ứng được yêu cầu hội nhập, trong đó coi việc ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất như một yếu tố đột phá. Đây sẽ là cơ sở để đạt mục tiêu tăng trưởng trong nông nghiệp theo hướng thâm canh, hiệu quả và bền vững.
Thực hiện các Nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước, trong những năm qua, khoa học, công nghệ đã góp phần rất quan trọng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp nước ta phát triển liên tục với tốc độ cao và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Sản lượng cây trồng từ năm 2000 - 2009 tăng bình quân: lúa 2,2%, lạc 5,2%, ngô 10,8%, đậu tương 7,6%, chè 11,6%, cà phê 3,4%, cao su 10,7%, hồ tiêu 12,1%, điều 20,8%. Lương thực bình quân đầu người/năm tăng từ 445 kg (năm 2000) lên 503 kg (năm 2009), ngành chăn nuôi phát triển bền vững, nuôi trồng thủy sản tăng 19,5% về sản lượng, 10,9% về giá trị. Từ chỗ là quốc gia thiếu lương thực, đến nay Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới với bình quân xuất khẩu trên 4,5 triệu tấn/năm, trong đó năm 2009 đạt 6 triệu tấn. Những tiến bộ về khoa học, công nghệ có vai trò quyết định trong thành công này.
Việc đưa các tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất đã mang lại hiệu quả thiết thực. Năm 1990, lần đầu tiên nông dân huyện Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang làm lúa đông xuân. Đó cũng là thời điểm nông dân đồng bằng sông Cửu Long "chia tay" làm lúa mùa một vụ. Năng suất lúa bình quân từ 3 tấn/ha/năm đã tăng lên 10 tấn/ha/năm, thậm chí có nơi hơn 13 tấn/ha/năm. Đây là dấu mốc thành công của chiến lược nghiên cứu cây lúa có thời gian sinh trưởng ngắn (90 ngày), góp phần thúc đẩy gia tăng diện tích gieo trồng xấp xỉ 4 triệu ha trong vùng. Chiến lược thành công nhất của đồng bằng sông Cửu Long trong 20 năm qua là tạo được giống lúa cực sớm (các giống OMCS). Đây là cơ sở đề hạt lúa tạo nên kỳ tích. Trước đây, 2 triệu ha đất canh tác một vụ, năng suất 20 tạ/ha, cả đồng bằng sông Cửu Long chỉ đạt khoảng 4 triệu tấn lúa; năm 2009 sản lượng đạt hơn 21 triệu tấn, tăng gần 4 triệu tấn so năm 2000. Đưa năng suất lúa chung cả nước lên 52,3 tạ/ha, sản lượng đạt 39 triệu tấn, tăng 7 triệu tấn so năm 2000. Tuy nhiên, để có được hạt gạo chất lượng phải nói đến công nghệ hạt giống. Năm 1998, hạt giống tốt (giống xác nhận) chỉ có 2%, năm 2003 tăng lên 10%, 2004 lên 20%, đến năm 2008 gần 40% diện tích sử dụng giống xác nhận. Năng suất lúa bình quân 2009 ở đồng bằng sông Cửu Long khoảng 53 tạ/ha, đứng đầu khu vực ASEAN. Việc thay đổi phương pháp gieo cấy truyền thống bằng kỹ thuật "gieo mạ sân" cũng đem lại nhiều ưu thế vượt trội. Lâu nay tập quán sản xuất lúa phổ biến của vùng đồng bằng sông Cửu Long là gieo sạ hoặc gieo mạ cấy trực tiếp trên ruộng. Trong khi gieo mạ trên ruộng phải cần hơn một chục lao động để nhổ mạ cấy, gieo trên sân chỉ cần hai người và mất 30 phút đề cuốn đủ mạ cấy cho một ha. Kỹ thuật này còn mang lại những lợi ích thiết thực như bảo đảm độ đồng đều của giống, hạt gạo không bị lẫn tạp, lúa được cấy ngay hàng thẳng lối, thông thoáng nên cây quang hợp tốt, ít sâu bệnh, lúa không bị gãy đỗ nên việc thu hoạch cũng nhanh gọn, dễ dàng. Quan trọng hơn cả là phương pháp này rút ngắn thời gian lúa trên đồng, né được lũ, vượt được phèn mặn. Đây còn là phương pháp sản xuất lúa sạch cho mục tiêu xuất khẩu. Cơ giới hoá nông nghiệp là biện pháp khoa học kỹ thuật được áp dụng khá rộng rãi trong các khâu làm đất, thu hoạch lúa ở đồng bằng sông Cửu Long và đem lại kết quả khá cao. Một máy gặt đập đưa vào sản xuất năng suất thu hoạch gấp 100 người. Sử dụng máy gặt đập liên hợp rút ngắn thời gian thu hoạch, giúp nông dân có điều kiện làm vệ sinh đồng ruộng, cày ải, phơi đất... làm tăng độ phì nhiêu của đất, hạn chế dịch bệnh và xuống giống đúng thời vụ. Sử dụng máy gặt đập không chỉ chi phí thu hoạch thấp hơn, mà còn giảm tỷ lệ hao hụt xuống còn 1%. Nhiều khâu trong sản xuất nông nghiệp nhờ được cơ giới hóa, đã bước đầu góp phần giải phóng sức lao động. Trong đó, làm đất là khâu có tỷ lệ cơ giới hóa lớn nhất, giải phóng được nhiều sức lao động nhất cho người nông dân. Ước tính khoảng 80-90% khâu làm đất ở các địa phương được thực hiện bằng phương tiện cơ giới, 50-60% hoạt động sản xuất nông nghiệp được ứng dụng công nghệ, thiết bị kỹ thuật, nhiều khâu trong sản xuất nông nghiệp được giải phóng sức lao động.
Không chỉ đồng bằng sông Cửu Long mà trên phạm vi cả nước, những năm qua khoa học, công nghệ còn áp dụng vào nhiều khâu canh tác khác trên đồng ruộng, nhất là trong sản xuất lúa. Từ đầu tư ban đầu làm nhà lưới hệ thống tưới dưỡng ẩm, kiểm soát ánh sáng, nhiệt độ mà cây trồng sinh trưởng, phát triển tốt, an toàn cho chính người trồng, chăm sóc ruộng, vườn và người sử dụng nông sản. Mặt khác, các dự án này giảm hẳn chi phí chăm sóc như thuốc bảo vệ thực vật, ngày công lao động và chi phí phục vụ tưới tiêu cơ học. Trên thực tế việc công nhận và đưa khoa học, công nghệ ứng dụng trên đồng ruộng đã góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng và sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả hơn. Công tác chọn tạo giống cây trồng vật nuôi đã góp phần quan trọng làm tăng năng suất, nâng cao phẩm chất nông sản phẩm, giảm giá thành và tăng khả năng cạnh tranh của hàng nông sản Việt Nam. Nếu những năm trước đây, chỉ có 5% giống chất lượng được sử dụng, thì đến nay, tỷ lệ giống tốt, đạt tiêu chuẩn đã chiếm hơn 30% (trong đó có 30% diện tích lúa đang sử dụng giống chất lượng cao, chè 30%, điều 25%, ngô 65%, bò thịt 40%, lợn nạc 30%). Trong quá trình sản xuất, nhiều tiến bộ kỹ thuật được áp dụng rộng rãi, góp phần tăng năng suất và chất lượng nông sản, như kỹ thuật sạ hàng giúp tiết kiệm 40 - 60% số hạt giống. Hay việc tổ chức bón phân theo bảng so màu, giúp tiết kiệm 15 - 20% lượng phân đạm và hạn chế số lần phun thuốc bảo vệ thực vật, góp phần bảo vệ sức khỏe người lao động. Việc áp dụng tiến bộ của khoa học vào quy trình chăm bón - thu hoạch, bảo quản, đặc biệt là chương trình phát triển công nghiệp chế biến cũng được thực hiện có hiệu quả. Bên cạnh đó, do cải thiện được chất lượng nên giá bán các nông sản ở thị trường trong nước và quốc tế cũng tăng đáng kể.
Nhờ áp dụng các tiến bộ trong lĩnh vực chọn tạo giống mà nhiều cây trồng ở nước ta có năng suất, chất lượng chạm trần, tức là tương đương với cây trồng, vật nuôi cùng loại ở các nước có nền sản xuất nông nghiệp tiên tiến. Về lúa lai, chúng ta đã làm chủ công nghệ chọn thuần và nhân dòng. Bố mẹ, đã chọn thuần nhân lượng lớn dòng mẹ, dòng bố cung ứng cho sản xuất hạt lai F1 của các tổ hợp: HYT S3, HYT 100, HYT 92, TH3-3, TH3-4 với diện tích 200- 300 ha/năm. Nhiều tổ hợp lúa lai mới mang thương hiệu Việt Nam đã mang lại thành công ngoài dự đoán. Chỉ tính riêng 69 giống lúa được công nhận trong giai đoạn 2001 - 2005 với diện tích gieo trồng khoảng 1,6 triệu ha, năng suất cao hơn 10% thì tổng sản lượng tăng thêm là 794 nghìn tấn, tương đương với gần 2 nghìn tỷ đồng. Trong sản xuất ngô, nhờ tăng cường sử dụng giống ngô lai, ngô thụ phấn, kết hợp các biện pháp kỹ thuật canh tác tiên tiến, năng suất và sản lượng ngô từ 2,96 tấn/ha và 2,16 triệu tấn năm 2001 đã tăng lên 3,6 tấn/ha và 3,75 triệu tấn năm 2005. Hay với 2 giống khoai tây mới chọn tạo (VC 38.6 và P3) được trồng hơn 450 ha ở các tỉnh phía bắc, cho năng suất tăng hơn giống cũ 6 tấn/ha, sản lượng tăng hơn 3 nghìn tấn. Nhờ vậy, mặc dù tỷ trọng giá trị cây trồng có xu hướng giảm, nhưng sản lượng tiếp tục tăng. Năm 2008, tuy gặp nhiều khó khăn, sản lượng lương thực cây có hạt vẫn đạt hơn 43,16 triệu tấn, tăng 3 triệu tấn so với năm 2007 và là năm có sản lượng cao nhất từ trước đến nay. Năm 2009, dù cả nước có 11 cơn bão tràn qua gây thiệt hại nặng nề cho nông nghiệp, nhất là miền Trung và Tây Nguyên, nhưng sản lượng lương thực vẫn đạt hơn 43,3 triệu tấn, nông nghiệp vẫn được mùa, được giá. Cũng nhờ áp dụng khoa học, công nghệ, tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi có xu hướng tăng với tốc độ tăng trưởng cao. Quá trình nghiên cứu lai tạo giống tốt đã giúp đàn lợn tăng 6%/năm, đàn bò tăng 5,6%/năm. Thành công trong nghiên cứu các công thức lai giữa bò nội và bò ngoại đã tạo ra con lai F1 có năng suất thịt cao hơn đàn bò vàng Việt Nam 20 - 50%, phát triển được đàn bò lai hướng thịt với các giống Charolais, Hereford, Red Brahman... Riêng đàn bò sữa tăng bình quân hơn 20%/năm. Đặc biệt đã có 324 con bò F2 cao sản đạt hơn 5 - 8 nghìn kg sữa/chu kỳ. Các nhà khoa học nông nghiệp còn lai tạo và khảo nghiệm thành công hàng loạt công thức lai giữa lợn nội - ngoại, ngoại - ngoại và các tổ hợp 4 máu ngoại được đưa vào phục vụ chăn nuôi, góp phần tăng khối lượng xuất chuồng. Đã nghiên cứu lai tạo và khảo nghiệm thành công các cặp lợn lai có tỷ lệ nạc từ 56 đến 60%. Qua nhiều thí nghiệm lai chéo dòng, đã xác định được công thức lai tối ưu tạo con lai thương phẩm 3 máu ngoại. Trọng lượng tăng, nhưng lượng thúc ăn cho 1 kg tăng trọng lại giảm từ 3,8 - 4,3kg xuống 2,8 - 3kg. Lĩnh vực nuôi trong thủy sản cũng thành công nhờ các nghiên cứu sinh sản nhân tạo một số loàn thủy sản có giá trị kinh tế cao, không phụ thuộc vào tự nhiên, như cá song chấm nâu, cá giò, cá tra, tư hài, ốc hương... hay việc nâng cao chất lượng giống thông qua tạo các giống có tốc độ sinh trưởng nhanh, như giống tôm càng xanh toàn đực (đơn tính) đang nuôi thử nghiệm tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Công nghệ sinh học giúp cho Đà Lạt lai tạo được nhiều giống hoa có chất lượng cao. Công nghệ sinh học đã tạo nên sự tiến bộ đáng kể trên nhiều lĩnh vực, như công nghệ sinh học tế bào - mô thực vật, công nghệ sinh học kết hợp kỹ thuật hạt nhân, công nghệ sinh học - vi sinh ứng dụng trong nông nghiệp, y dược, tài nguyên nấm, môi trường...
Sự phát triển của nền nông nghiệp nước ta đang đi vào mức độ thâm canh cao, khai thác đất theo chiều sâu với việc sử dụng các kỹ thuật trồng trọt tiên tiến, giống mới có năng suất cao, sử dụng nhiều phân bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật hóa học và hàng loạt các biện pháp như trồng lúa 3 vụ, phá rừng canh tác cà phê, hồ tiêu, điều... với mục đích khai thác, chạy theo năng suất và sản lượng của toàn xã hội. Chính vì vậy, đã làm cho đất đai ngày càng thoái hóa, mất cân bằng hệ sinh thái trong đất, hệ vi sinh vật trong đất bị phá hủy, các chất độc hại tồn dư trong đất ngày càng cao, nguồn bệnh tích lũy trong đất càng nhiều dẫn đến phát sinh một số dịch hại không dự báo trước.
Để bảo vệ đất và hệ sinh thái cây trồng, vật nuôi trong những năm qua, khoa học, công nghệ đã nghiên cứu xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp sạch, hạn chế sử dụng
phân bón hoá học, thuốc trừ sâu tràn lan, quay trở lại nền nông nghiệp hữu cơ, áp dụng các loại phân khoáng, phân hữu cơ và chế phẩm vi sinh vật, phân bón vi sinh một cách tổng hợp song song với việc quản lý mùa vụ, phân khoáng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây dưới dạng tập trung đang là xu hướng chung của Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung. Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, hiện nay trong danh mục các loại thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học, đã có 479 sản phầm được phép lưu hành, trong đó có 300 loại thuốc trừ sâu và 98 sản phầm thuốc trừ bệnh. Các sản phẩm này đã góp phần không nhỏ vào công tác phòng trừ dịch hại, góp phần thay thế và hạn chế dần nguy cơ độc hại do sử dụng thuốc bảo vệ thực vật nguồn gốc hóa học ảnh hưởng đến sức khỏe con người và gây ô nhiễm môi trường.
Những thành tựu đạt được trong phát triển khoa học, công nghệ trong nông nghiệp nước ta những năm qua là to lớn và rất đáng ghi nhận, song hạn chế, bất cập vẫn còn nhiều. Kết quả nghiên cứu, thí nghiệm những năm qua là rất phong phú và đa dạng, nhưng đưa vào thực tế sản xuất, bảo quản, chế biến nông sản còn chưa tương xứng. Chất lượng và hiệu quả của các chương trình, dự án, đề án, đề tài khoa học, công nghệ chưa đồng bộ. Đội ngũ cán bộ khoa học, công nghệ nông nghiệp chủ yếu tập trung ở các bộ, ngành, viện nghiên cứu còn ở địa phương xã, thôn, trạm trại thực nghiệm, triển khai... còn ít, trình độ thấp. Kinh phí đầu tư cho khoa học, công nghệ phục vụ nông nghiệp nói chung còn rất thấp chưa tương xứng với yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững, chất lượng cao, giá thành hạ. Hàm lượng chất xám trong sản phẩm nông nghiệp còn thấp nên sức cạnh tranh của nông sản, thủy sản còn hạn chế. Khó khăn hiện nay là việc nghiên cứu ứng dụng chế phẩm sinh học trong phòng trừ sâu hại ở Việt Nam chủ yếu ở trong phòng thí nghiệm và quy mô sản xuất thử, khả năng bảo quản các thuốc bảo vệ thực vật có nguồn gốc sinh học còn tốn nhiều chi phí, dẫn đến giá thành cao. Do điều kiện canh tác chưa tập trung, còn mang tính hộ nhỏ lẻ nên chưa có giá trị chuyển giao, khuyến cáo người sử dụng. Nhà sản xuất cần đầu tư quảng cáo sản phẩm.
Để phát huy những kết quả đã đạt được, đồng thời khắc phục các hạn chế trên, tạo bước tiến căn bản trong phát triển khoa học, công nghệ phục vụ nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thời gian tới cần đổi mới chính sách và cơ chế đối với các hoạt động nghiên cứu, triển khai các đề tài, các trạm trại thực nghiệm, nhất là tổ chức, quản lý, chỉ đạo, triển khai ứng dụng khoa học, công nghệ vào nông nghiệp bằng nhiều giải pháp tích cực, đồng bộ, có tính khả thi.
Thứ nhất, Nhà nước cần tăng tỷ lệ vốn ngân sách đầu tư cho khoa học, công nghệ phục vụ nông nghiệp, đẩy mạnh công tác nghiên cứu, chuyển giao và ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất, đào tạo nguồn nhân lực, tạo bước đột phá trong tất cả các khâu sản xuất bảo quản, chế biến nông lâm thuỷ sản.
Thứ hai, tiếp tục đổi mới công tác quản lý khoa học nông nghiệp, xây dựng cơ chế tiếp nhận, chuyển giao và ứng dụng rộng rãi tiến bộ khoa học công nghệ từ nước ngoài; cải tiến cơ chế quản lý khoa học; khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế tham gia vào nghiên cứu và chuyển giao khoa học, công nghệ; đổi mới hoạt động của hệ thống khuyến nông, đưa trí thức về làm việc tại nông thôn; đẩy mạnh cơ giới hóa trong nông nghiệp.
Thứ ba,xây dựng các chính sách và đổi mới cơ chế đãi ngộ thỏa đáng để khai thác, phát huy các nguồn lực khoa học, công nghệ, khuyến khích mọi thành phần kinh tế, nhà khoa học tham gia nghiên cứu, sáng tạo, mạnh dạn ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ mới vào sản xuất nông nghiệp. Tăng cường năng lực của hệ thống khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư để xây dựng nông thôn thành các vùng sản xuất nông sản an toàn công nghệ cao. Bên cạnh đó, phát triển sản xuất và chế biến theo hướng sản xuất hàng hóa lớn các loại nông sản xuất khẩu mà Việt Nam có lợi thế, hình thành các vùng chuyên canh với sự mở rộng và chất lượng ngày càng cao.








