Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam
Thứ sáu, 30/06/2006 23:08 (GMT+7)

Phát hiện mới về mối liên hệ tim-não

Trái tim tan nát phải chăng là điều có thực?

Nhà chỉ huy Herbert von Karajan đã có lần nói rằng âm nhạc là lẽ sống của ông, chắc chắn chính ông cũng không biết câu nói ấy thiêng đến mức nào vì ông đã qua đời dúng vào năm ông nghỉ hưu sau 30 năm đứng đầu dàn nhạc giao hưởng thủ đô Berlin. Tuy nhiên điều đáng ngạc nhiên hơn là đã có 2 nhà tâm lý học dự đoán được điều đó từ 12 năm trước. Thời đó 2 nhà tâm lý học đã nghiên cứu chức năng tim của nhà chỉ huy tài ba và nhận thấy rằng trái tim ấy đã phản ứng rất khác nhau theo từng loại hoạt động. Khi chỉ huy khúc mở đầu Lenora 3 rất nhiều cảm xúc của Beethoven, tim ông đã có những thay đổi rất lớn.. Chỉ cần nghe lại đoạn nhạc đó nhịp tim của ông cũng đã tăng như khi ông chỉ huy. Có nhiều đoạn nhạc trong bản nhạc cũng gây xúc động cho một nhà chỉ huy nào đó nhưng với Karajan thì chỉ gây ra sự tăng nhẹ nhịp tim. Với những hoạt động khác thì trái tim của ông tỏ ra dửng dưng kể cả khi máy bay hạ cánh hay cất cánh….

Tóm lại trái tim của nhà chỉ huy Karajan hoàn toàn hiến dâng cho âm nhạc và nếu phải rời bỏ âm nhạc thì nó cũng ngừng đập luôn.

Trong cuộc sống, ai cũng có thể đã từng nghe thấy chuyện bà vợ của một ông hàng xóm già mới qua đời vài tháng thì ông ta cũng đi theo vợ, hay chuyện bà mẹ đã chết sau khi mất đứa con trai yêu quý nhất… Câu nói cửa miệng “trái tim tan nát” đã đúng với những trường hợp trên cả nghĩa bóng lẫn nghĩa đen. Trong một thời gian dài y học đã xem những chuyện tương tự như trên chỉ là chuyện tình cờ. Chỉ vài thập niên gần đây các thầy thuốc tim mạch và các nhà tâm lý mới quan tâm đến những chuyện “tình cờ” đó và đã khám phá ra rằng stress là một yếu tố nguy cơ gây các bệnh tim mạch còn quan trọng hơn cả thuốc lá. Bị trầm cảm sau khi bị nhồi máu cơ tim báo hiệu tử vong sẽ xảy ra trong vòng 6 tháng với độ chính xác còn hơn cả mọi phương tiện thăm dò chức năng tim khác. Khi vùng não cảm xúc bị rối loạn, trái tim sẽ đau và cuối cùng sẽ kiệt sức. Nhưng khám phá đáng ngạc nhiên nhất là mối quan hệ hai chiều của tim và não cảm xúc. Sự cân bằng của tim có ảnh hưởng đến não; thậm chí một số thầy thuốc tim mạch và thần kinh còn nói đến một hệ thống tim-não không thể tách rời.

Nếu như có một thứ thuốc nào đó có thể làm hài hoà mối quan hệ gắn bó tim-não thì sẽ có rất nhiều tác dụng có lợi cho toàn bộ cơ thể, làm chậm tiến trình lão hoá, giảm stress và mỏi mệt, triệt tiêu lo sợ, chống trầm cảm, giúp dễ ngủ, nâng cao khả năng làm việc và tập trung suy nghĩ, tạo trạng thái thoải mái, dễ chịu, cũng sẽ chống được cả cao huyết áp… nghĩa là “mọi thứ trong một” và nhà nước sẽ không ngần ngại cho vào cả nước máy như đã từng làm với flour để phòng sâu răng. Đáng tiếc là thứ thuốc thần kỳ đó chưa có, nhưng chúng ta lại có một phương thức khác đơn giản, hiệu quả và bất cứ ai cũng có thể thực hiện được, có tác dụng rất tốt cho cơ thể và cảm xúc, kể cả sự trẻ hoá tình trạng sinh lý. Vì sao phương pháp đó lại thần diệu như vậy, trước tiên cần tìm hiểu về hoạt động của hệ tim-não.

Cảm xúc của trái tim

Cảm xúc được cảm nhận bằng cả thân thể chứ không phải bằng cái đầu, điều đó xem ra rất tự nhiên. Ngay từ năm 1890, William James, giáo sư của trường đại học Harvard và là người xây dựng khoa tâm lý học Mỹ đã viết rằng cảm xúc trước hết là một trạng thái của cơ thể và sau đó mới là cảm nhận của lý trí. Những kết luận của ông dựa trên sự nghiên cứu diễn biến thông thường của cảm xúc. Người ta thường nói “trong lòng sợ quá” hay “trong lòng bực bội” hay “thật đau lòng khi phải chia tay người thân yêu”… Những câu nói đó thể hiện khá chính xác những trạng thái cảm xúc mà ta có thể gặp trong đời sống hằng ngày. Cách đây không lâu khoa học đã khám phá ra rằng cả ruột non và trái tim đều có một mạng lưới riêng gồm vài trăm ngàn nơ-ron (tế bào thần kinh) và được xem như là “những bộ não nhỏ” ở bên trong cơ thể. Những bộ não tại chỗ này có khả năng cảm nhận riêng và điều chỉnh hành vi theo những cảm nhận đó. Ngoài mạng lưới nơ-ron bán tự động của riêng mình, trái tim còn có khả năng hy động nguồn dự trữ hoóc-môn adrenaline khi cần hoạt động hết công suất; bài tiết và kiểm soát sự giải phóng một hoóc-môn khác có nhiệm vụ điều chỉnh huyết áp và cuối cùng là nguồn dự trữ ocytocine của chính trái tim- một hoóc-môn được mệnh danh là hoóc-môn tình yêu - được bài tiết vào máu khi người mẹ cho con bú, khi đôi trai gái đang thời kỳ “cưa cẩm” nhau và khi có khoái cực. Tất cả những hoóc-môn này đều tác động trực tiếp đến não. Trái tim còn ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể bằng những biến động của diện rộng điện từ trường mà tim phát ra, một trường điện sinh học có thể phát hiện được từ nhiều mét ngoài cơ thể, nhưng tới nay ý nghĩa của nó còn chưa biết rõ mà mới chỉ biết rõ về tầm quan trọng của trái tim trong các biểu hiện của cảm xúc và điều đó không phải là cách nói hình ảnh. Trái tim biết cảm nhận và rung động; khi thể hiện vai trò của mình, nó ảnh hưởng đến toàn bộ sinh lý của cơ thể và bắt đầu từ não.

Mối quan hệ sinh học của hệ tim-não

Mối quan hệ giữa vùng não cảm xúc (nằm sâu trong não và được hình thành sớm nhất trong tiến trình tiến hoá) và “bộ não nhỏ” của trái tim là một trong những yếu tố cơ bản của trí thông minh cảm xúc. Biết kiểm soát trái tim cũng là biết chế ngự vùng não cảm xúc và ngược lại mối quan hệ mật thiết giữa trái tim và não cảm xúc được tạo nên nhờ một hệ thống thần kinh ngoại biên có khả năng hoạt động độc lập”, nghĩa là một bộ phận của hệ thần kinh kiểm soát hoạt động của các cơ quan mà không cần sự can thiệp của ý chí và ý thức của con người. Ví dụ tim tự động đập nhanh khi hồi hộp, lo sợ; dạ dày tự động co bóp mạnh khi thức ăn không lành gây cơn đau quặn bụng… Hệ thần kinh tự đồng gồm 2 nhánh thần kinh luôn hiện diện ở mọi cơ quan của cơ thể, bắt đầu từ vùng não cảm xúc: một nhánh có tên là “thần kinh giao cảm (sympathique) bài tiết ra hoóc-môn adrenaline và noradrenaline, chi phối các phản ứng trong chiến đấu và chạy trốn. Theo gốc chữ Latin thì sympathique có nghĩa là “có mối quan hệ” vì các nhánh thần kinh này có liên hệ với tuỷ sống trong suốt chiều dài của cột sống. Còn nhánh kia được gọi là “thần kinh phó giao cảm” bài tiết một chất dẫn truyền thần kinh khác tạo ra trạng thái thư giãn và yên tĩnh cho tâm trí, chất acetylcholin.

Trong số những cơ chế kết nối tim và não thì hệ thống thần kinh tự động đóng vai trò đặc biệt quan trọng: thần kinh giao cảm làm cho tim đập nhanh và làm cho vùng não cảm xúc hoạt động trong khi thần kinh phó giao cảm làm nhiệm vụ kiềm chế cả tim và não cảm xúc. Ở động vật có vú, hai hệ thống tăng cường và kiềm chế nói trên luôn trong trạng thái cân bằng, nhưng lại có thể thích ứng rất nhanh chóng với mọi biến đổi của môi trường sống. Ví dụ con thỏ gặm cỏ nhưng chốc chốc lại ngẩng cao đầu, vểnh tai theo dõi mọi động tĩnh xung quanh; khi không thấy có nguy hiểm gì nó mới bình yên tiếp tục bữa ăn của nó. Chỉ loài có vú mới có trạng thái sinh lý mềm dẻo như thế. Những tay đua ô tô công thức 1 là những người cực kỳ mạnh mẽ và nhạy bén vì luôn phải đối phó với những khúc ngoặt bất ngờ, khi đó phải biết vận dụng cả khả năng tăng tốc lẫn chế ngự tốc độ. Theo nhà nghiên cứu người Mỹ Stephen Porges thì chính sự cân bằng tinh tế giữa hai nhánh của hệ thần kinh tự động (nhanh giao cảm và phó giao cảm) đã giúp cho loài có vú phát triển những mối quan hệ xã hội ngày càng phức tạp trong quá trình tiến hoá, trong đó mối quan hệ phức tạp nhất lại là tình yêu, mà thời kỳ đỏng đảnh nhất là thời kỳ đang tìm cách chinh phục nhau. Khi cô gái ửng hồng đôi má là khi hệ thần kinh giao cảm hoạt động hơi mạnh, khi chàng trai lúng túng, vụng về là khi không làm chủ được hệ thần kinh tự động.

Tuy nhiên mối quan hệ tim-não là mối quan hệ hai chiều, tim không chỉ chịu ảnh hưởng của hệ thần kinh trung ương mà tim cũng kiểm soát hoạt động của não thông qua những sơi jthần kinh đi đến sàn não. Ngoài con đường hooc-môn, huyết áp động mạch và điện từ trường của cơ thể, “bộ não nhỏ” của tim có thể tác động đến vùng não cảm xúc bằng những liên hệ thần kinh trực tiếp. Khi tim hoạt động rối loạn thì kéo theo cả vùng não cảm xúc.

Sự dao động bình thường của nhịp tim phản ánh trực tiếp mối quan hệ qua lại giữa não cảm xúc và tim. Hai nhánh của hệ thần kinh tự động luôn luôn cân bằng cho nên chúng cũng luôn luôn trong trạng thái làm cho tim đập nhanh lên hay chậm đi. Vì thế, khoảng cách giữa hai nhịp đập liên tiếp của tim không bao giờ giống nhau; sự dao động này là bình thường và là dấu hiệu chứng tỏ hoạt động suôn sẻ của hệ thống kiềm chế, thúc đẩy và của toàn bộ hệ thống sinh lý. Sự dao động này khắc hẳn với tình trạng loạn nhịp tim nhanh kịch phát hay những con tim đập nhanh đi kèm với trạng thái lo sợ là triệu chứng bất thường của tim khi tim không còn chịu tác dụng kiềm chế của hệ phó giao cảm. Ngược lại, khi nhịp tim đều như một chiếc máy gõ nhịp (metronome), không hề có sự dao động dù nhỏ thì cũng lại là một dấu hiệu nghiêm trọng. Điều này các bác sĩ sản khoa biết rõ hơn ai hết, tim thai nhi trong cuộc chuyển dạ có thể bị suy đến mức làm cho thai nhi chết cho dù đã được theo dõi rất kỹ lưỡng. Ở người trưởng thành cũng vậy, vài tháng trước khi qua đời, nhịp tim bỗng trở nên rất đều:

Khoảng một thập niên gần đây, các nhà khoa học nhận thấy rằng sự dao động về nhịp tim mạnh nhất khi mới sinh ra và yếu nhất khi sắp chết, mỗi năm sự dao động về nhịp tim mất đi khoảng 3%. Đó là dấu hiệu chứng tỏ trạng thái sinh lý mất dần tính mềm dẻo, càng khó thích nghi với những biến động của môi trường thể chất và cảm xúc. Đó là dấu hiệu của sự già nua; nếu sự dao động của nhịp tim càng thấp nghĩa là có phần nào cơ thể không duy trì được cơ chế ngừng hãm, không vận dụng được sức mạnh của hệ phó giao cảm; giống như một cơ bắp không hoạt động thì cơ đó sẽ teo dần. Trong khi đó cơ thể lại không ngừng sử dụng hệ thần kinh giao cảm để thúc đẩy hoạt động kéo dài hàng chục năm, cuối cùng trạng thái sinh lý giống như một chiếc xe chỉ có thể tiến và tăng tốc nhưng lại không thể đi chậm theo yêu cầu.

Sự hạ thấp mức dao động của nhịp tim thường liên quan đến stress và sự lão hoá: cao huyết áp, suy tim, biến chứng tiểu đường, nhồi máu cơ tim, đột tử và cả ung thư. Những công trình nghiên cứu này đã được công bố trên hai tạp chí y học có uy tín là Lancet hoặc Circulation để khẳng định một điều: khi sự dao động về nhịp tim biến mất, khi tim hầu như không còn đáp ứng nữa với cảm xúc và nhất là khi tim không còn biết “chế ngự” thì có nghĩa là cái chết đang đến gần.

Nguồn: Thế giới trong ta, số 240, 9/2005

Xem Thêm

Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách
Trong hai ngày 12-13/11, tại tỉnh Cao Bằng, Liên hiệp các Hội KH&KT Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PanNature) và Liên hiệp các Hội KH&KT tỉnh Cao Bằng tổ chức Chương trình chia sẻ “Thúc đẩy vai trò của Liên hiệp các Hội KH&KT địa phương trong bảo tồn đa dạng sinh học và thực thi chính sách”.
Thúc đẩy ứng dụng thực tiễn của vật liệu tiên tiến trong sản xuất năng lượng sạch
Ngày 24/10, tại Trường Đại học Khoa học Tự nhiên – Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp với Hội Khoa học Công nghệ Xúc tác và Hấp phụ Việt Nam (VNACA) tổ chức Hội thảo khoa học “Vật liệu tiên tiến ứng dụng trong sản xuất nhiên liệu tái tạo và giảm phát thải khí nhà kính”.
Dựa vào thiên nhiên để phát triển bền vững vùng núi phía Bắc
Đó là chủ đề của hội thảo "Đa dạng sinh học và giải pháp dựa vào thiên nhiên cho phát triển vùng núi phía Bắc" diễn ra trong ngày 21/10, tại Thái Nguyên do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Vusta) phối hợp với Trung tâm Con người và Thiên nhiên (PANNATURE) phối hợp tổ chức.
Muốn công tác quy hoạch hiệu quả, công nghệ phải là cốt lõi
Phát triển đô thị là một quá trình, đô thị hoá là tất yếu khách quan, là một động lực quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. Trong kỷ nguyên vươn mình, quá trình đô thị hoá không thể tách rời quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước...
Hội thảo quốc tế về máy móc, năng lượng và số hóa lần đầu tiên được tổ chức tại Vĩnh Long
Ngày 20/9, tại Vĩnh Long đã diễn ra Hội thảo quốc tế về Máy móc, năng lượng và số hóa hướng đến phát triển bền vững (IMEDS 2025). Sự kiện do Hội Nghiên cứu Biên tập Công trình Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VASE) - hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vĩnh Long (VLUTE) tổ chức.
Ứng dụng công nghệ số toàn diện là nhiệm vụ trọng tâm của VUSTA giai đoạn tới
Ứng dụng công nghệ số toàn diện, xây dựng hệ sinh thái số là bước đi cấp thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản trị và phát huy sức mạnh đội ngũ trí thức của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA). Qua đó cho thấy, VUSTA không chỉ bắt kịp xu thế công nghệ mà còn chủ động kiến tạo những giá trị mới, khẳng định vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức trong thời đại số.

Tin mới

Đoàn Thanh niên VUSTA trao yêu thương, lan tỏa tri thức tới điểm trường Ấm Hiêu, tỉnh Thanh Hóa
Ngày 18/12, Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) tham gia Lễ khánh thành Cụm công trình thư viện và nhà vệ sinh tại điểm trường Ấm Hiêu, Trường tiểu học Cổ Lũng, tỉnh Thanh Hóa, đồng thời trao tặng sách, truyện cho các em học sinh tại Điểm trường.
Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII
Sáng ngày 19/12, Đoàn Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp Hội Việt Nam) tổ chức Hội nghị Hội đồng Trung ương Liên hiệp Hội Việt Nam lần thứ 11, khóa VIII (2020-2025). Hội nghị được tổ chức nhằm đánh giá kết quả hoạt động năm 2025, xác định phương hướng, nhiệm vụ công tác năm 2026; đồng thời xem xét một số nội dung quan trọng thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trung ương.
Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh dẫn đoàn Việt Nam tham dự Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025
Ngày 7/12, tại Tp. Côn Minh, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc, Diễn đàn Kỹ sư Lan Thương - Mekong 2025 đã được tổ chức với chủ đề “Kỹ thuật xanh và Phát triển bền vững”. Đoàn Việt Nam do Phó Chủ tịch Liên hiệp Hội Việt Nam Phạm Ngọc Linh - làm trưởng đoàn đã tham dự Diễn đàn. Tham gia Đoàn công tác có đại diện của Hội Thủy lợi Việt Nam, Ban Khoa học và Hợp tác quốc tế, Văn phòng Liên hiệp Hội Việt Nam.
Thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý năng lượng - Giải pháp then chốt giảm phát thải nhà kính
Ngày 17/12, tại phường Bà Rịa, thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) phối hợp cùng Sở Công Thương TP.HCM, Trung tâm Chứng nhận Chất lượng và Phát triển Doanh nghiệp và Công ty Cổ phần Tập đoàn Vira tổ chức Hội thảo khoa học “Giải pháp thúc đẩy ứng dụng AI trong quản lý, sử dụng năng lượng hiệu quả nhằm giảm phát thải khí nhà kính”.
Liên hiệp Hội Việt Nam đoạt Giải Ba Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tham gia Cuộc thi Chính luận về Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lần thứ I, năm 2025 trong Đảng bộ MTTQ, các đoàn thể Trung ương, Liên hiệp Hội Việt Nam vinh dự có nhóm tác giả đoạt Giải Ba và Đảng uỷ Liên hiệp Hội Việt Nam là một trong 05 tổ chức Đảng được tặng Bằng khen của Ban Thường vụ Đảng ủy MTTQ, các đoàn thể Trung ương vì đã có thành tích xuất sắc trong tổ chức Cuộc thi.
Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu
Hội thảo “Ngập úng đô thị - Thách thức và biện pháp giảm thiểu” là diễn đàn trao đổi khoa học và thực tiễn, tập trung đánh giá toàn diện thực trạng, nguyên nhân và mức độ tác động của ngập úng đô thị, đồng thời đề xuất các giải pháp tổng hợp về quy hoạch, kỹ thuật, quản trị và chính sách…
VUSTA đón tiếp và làm việc với Đoàn công tác Hiệp hội Khoa học và Công nghệ Quảng Đông (GDAST)
Ngày 16/12, tại Trụ sở Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA), Phó Chủ tịch VUSTA Phạm Ngọc Linh đã chủ trì buổi tiếp và làm việc với Đoàn công tác của Hiệp hội Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Đông (GDAST), nhằm trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm và thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Đổi mới tư duy quy hoạch cải tạo đô thị theo hướng phát triển bền vững
Quá trình đô thị hóa gắn liền với các cuộc cách mạnh công nghiệp. Việc cải tạo đô thị ở các giai đoạn đô thị hóa đều được dẫn dắt bởi các tư tưởng quy hoạch, định hình nên mô hình đô thị sau cải tạo. Tư duy quy hoạch cải tạo đô thị nhấn mạnh sự linh hoạt, đề cao sự phát triển bền vững, bảo tồn di sản và sự tham gia của cộng đồng, chuyển từ mô hình một trung tâm sang mô hình đa trung tâm.