Nước ót - Nguồn nguyên liệu đã và đang bị lãng quên
Theo số liệu hàng năm cả nước ta sản xuất trên dưới 900.000 tấn muối như vậy lượng nước ót thải ra không dưới 1.800.000 mét khối. Chỉ tính riêng 4 xí nghiệp sản xuất muối của 3 tỉnh Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận mỗi năm đã thải ra từ 400.000 - 500.000m 3nước ót với nồng độ đậm đặc, gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường vùng ven biển ven bờ. Trong các ao, đìa và vùng ven biển nơi nước ót thải ra, nồng độ các muối tăng lên rất cao, khiến sinh thái thay đổi, cá, tôm chết, các quần thể sinh vật như san hô, rong biển bị huỷ hoại…
Đồng thời, nếu nước ót không được thải ra xa bờ sẽ làm cho nồng độ muối manhê ngày càng tăng trong khu vực lấy nước ban đầu và dẫn đến giảm hiệu quả khai thác muối ăn. Song nếu biết khai thác nó thì không những góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường sinh thái mà còn đem lại nguồn lợi không nhỏ.
Nhu cầu - triển vọng
Hiện nay, nhu cầu sử dụng các sản phẩm như tấm lợp, tấm ốp tường, trần nhà, nền nhà, tấm cách âm, cách nhiệt chế từ ximăng manhê khá lớn riêng tấm lợp mỗi năm nước ta có nhu cầu hàng triệu mét vuông, ngoài ra trong công nghiệp gốm sản xuất gốm sứ, thuỷ tinh cũng cần một lượng không nhỏ MgO, MgCl, có thể chế từ nước ót. Ưu điểm của vật liệu xây dựng làm từ ximăng manhê là độ cách nhiệt cách âm, cường độ chịu lực cao, không thám nước, màu sắc đa dạng, không sử dụng amiăng nên không gây độc hại cho người sản xuất và người dùng…Nguyên liệu chính để sản xuất các vật liệu nêu trên gồm có ôxyt manhê, clorua manhe, sợi thủy tinh, phụ gia…
Theo Phó giáo sư-Tiến sĩ khoa học Ngô Quốc Bưu, phân viện trưởng phân viện khoa học vật liệu tại Nha Trang thì những kết quả nghiên cứu của phân viện này cho thấy, nước ót từ đồng muối có nồng độ muối khoáng từ 33 độ Bômê trở lên có thể sử dụng trực tiếp để thay thế thành phần muối clorua manhê trong công nghệ sản xuất vật liệu trên cơ sở ximăng manhê. Theo quy trình công nghệ do Phân viện khoa học vật liệu tại Nha Trang đề xuất, mỗi tấm lợp ximăng manhê với kích thước 0,72m x 1,8m và trọng lượng 15kg cần 2,5kg clorua manhê hay 5 lit nước ót 33 độ Bômê. Mỗi năm các đồng muối ở Vĩnh Hảo (Bình Thuận), Cà Ná, Phương Cựu (Ninh Thuận) thải ra từ 280.000 – 350.000m 3nước ót trên 30 độ Bômê. Do các vùng này có số giờ nắng trong năm cao, khí hậu khô, tốc độ bay hơi lớn nên nước ót có thể đạt tới 33 - 35 độ Bômê nhờ bay hơi tự nhiên, rất thuận lợi cho sản xuất vật liệu ximăng manhê. Thế nhưng hiện nay nhiều cơ sở sản xuất tấm lợp ximăng manhê vẫn phải mua clorua manhê của Trung Quốc với giá trên dưới 1.500 đồng/kg. Trong khi đó, năm này qua năm khác một lượng nước ót khá lớn từ các đồng muối nước ta thải ra biển, gây ô nhiễm môi trường lại chưa được khai thác quy mô lớn để phục vụ sản xuất vật liệu ximăng manhê.
Theo tài liệu của Công ty xuất nhập khẩu vật tư kỹ thuật (Rexco) thuộc Viện Khoa học tự nhiên và công nghệ Quốc gia, nước ót sau khi được xử lý sẽ cho một sản phẩm gọi là muối đắng, dùng làm nguyên liệu chính (80%) để sản xuất phân bón trung vi lượng, Hàng năm, chỉ riêng bốn xí nghiệp muối nêu trên có thể cung cấp khoảng 200.000m 3nước ót trên 35 độ Bômê và cho tới 100.000 tấn nguyên liệu làm phân bón trung vi lượng. Mỗi năm sản xuất nông nghiệp nước ta cần hàng trăm ngàn tấn phân loại này.
Đầu tư khai thác tận dụng nước ót đồng muối có thể ví như phát tên nhắm vào hai đích: giải quyết vấn đề nhiễm bẩn môi trường và là nguồn nguyên liệu hoá chất phong phú phục vụ sản xuất trong nước, mang lại hiệu quả kinh tế cao.