Nóng, phẳng, chật
1: Thế giới nóng, phẳng, chật
Thế giới đang đối mặt với cuộc khủng hoảng môi trường nghiêm trọng nhất trong lịch sử. Hành tinh ngày càng nóng bức, chật chội hơn. Làm thế nào chúng ta thay đổi được tương lai?Thomas Friedman - tác giảThế giới phẳngvàChiếc Lexus và cây ôliu- trả lời qua cuốn sách mới nhất Nóng, phẳng, chật.
Chúng ta hãy bắt đầu với sự chật chội.
Sau đây là một thống kê đã làm tôi kinh ngạc. Tôi sinh ngày 20-7-1953. Nếu bạn vào trang web Infoplease.com và nhập ngày sinh của bạn, bạn sẽ nhận được kết quả ước tính số người có mặt trên Trái đất vào đúng ngày bạn sinh ra. Tôi đã thử làm và con số hiện ra ở ô kết quả là 2,681 tỉ. Nếu Chúa phù hộ, nếu tôi chăm đi xe đạp và ăn sữa chua thì tôi có thể sống đến 100 tuổi. Đến năm 2053, Liên Hiệp Quốc dự đoán dân số hành tinh này sẽ là hơn 9 tỉ người nhờ những tiến bộ trong chăm sóc sức khỏe, chữa bệnh và phát triển kinh tế. Có nghĩa là trong suốt cuộc đời tôi, dân số thế giới đang tăng hơn gấp ba lần, số người sinh ra từ nay đến năm 2053 cũng xấp xỉ bằng số người có trên Trái đất vào ngày sinh của tôi.
Đặc biệt, Ủy ban Dân số của Liên Hiệp Quốc đã công bố một báo cáo ngày 13-3-2007 cho biết: “Dân số thế giới sẽ tăng thêm 2,5 tỉ người trong 43 năm tới, khiến tổng dân số sẽ tăng từ 6,7 tỉ hiện tại lên 9,2 tỉ vào năm 2050. Mức tăng này bằng với quy mô dân số thế giới năm 1950 và chủ yếu tăng ở những khu vực kém phát triển - nơi dân số sẽ tăng từ 5,4 tỉ người năm 2007 lên 7,9 tỉ người năm 2050”.
Do đó, nếu bạn nghĩ hiện tại Trái đất đã là chật chội thì hãy chờ thêm vài thập kỷ nữa. Năm 1800, London là thành phố đông dân nhất thế giới với 1 triệu người. Năm 1960 đã có 111 thành phố có trên 1 triệu dân. Đến năm 1995 con số này là 280 thành phố và hiện tại là 300 theo thống kê của Quỹ Dân số Liên Hiệp Quốc. Liên Hiệp Quốc cũng cho biết con số các siêu đô thị (có trên 10 triệu dân) trên thế giới cũng tăng từ năm thành phố năm 1975 lên 14 thành phố năm 1995 và dự kiến năm 2015 sẽ là 26 thành phố. Hiện tượng bùng nổ dân số này đang gây áp lực lên cơ sở hạ tầng ở các siêu đô thị, cũng như dẫn tới hiện tượng hoang hóa đất, mất rừng, đánh bắt thủy sản quá mức, thiếu nước sinh hoạt, ô nhiễm nước và không khí.
Thế còn bằng phẳng thì sao?
Khi tôi viết rằng thế giới phẳng thì dĩ nhiên tôi không định nói Trái đất này đang phẳng dần về mặt hình dáng hay chúng ta đang bình đẳng hơn về mặt kinh tế. Tôi muốn nói đến những thay đổi về công nghệ, thị trường và địa chính trị đồng thời diễn ra cuối thế kỷ 20 đã san bằng sân chơi kinh tế toàn cầu, nhờ đó cho phép nhiều người ở nhiều nơi hơn bao giờ hết có thể tham gia nền kinh tế thế giới - và nếu gặp tình thế thuận lợi nhất, họ có thể gia nhập giai cấp trung lưu.
Tin mừng là quá trình phẳng hóa thế giới, chỉ tính riêng ở Trung Quốc và Ấn Độ (theo thống kê của Quỹ Tiền tệ quốc tế), đã đưa 200 triệu người thoát khỏi tình trạng nghèo đói khổ sở hồi thập kỷ 1980 và 1990, và đưa 10 triệu người khác lên nấc cao hơn trong chiếc thang kinh tế, trở thành tầng lớp trung lưu. Nhưng khi họ thoát được nghèo đói (thường đó là những người sống ở nông thôn và làm nông nghiệp) thì xuất hiện hàng trăm triệu người bắt đầu có thu nhập, nhờ đó có thể tiêu dùng nhiều hơn và sản xuất nhiều hơn.
Và tất cả những người tiêu dùng này tiến vào sân chơi kinh tế toàn cầu với chủ nghĩa tiêu dùng của riêng họ - được sở hữu xe hơi, nhà cửa, điều hòa không khí, điện thoại di động, lò vi sóng, máy nướng bánh mì, máy tính và máy nghe nhạc iPod - do đó dẫn tới lượng cầu hàng tiêu dùng trở nên khổng lồ. Tất cả những sản phẩm này, từ giai đoạn sản xuất đến khi bị vứt bỏ, đã tiêu tốn rất nhiều nhiên liệu, tài nguyên thiên nhiên, đất đai, nước cũng như phát thải một lượng rất lớn khí nhà kính gây biến đổi khí hậu toàn cầu.
Dĩ nhiên điều đó cũng châm ngòi cho một cuộc cạnh tranh chưa từng thấy để giành được năng lượng, khoáng sản, nước và lâm sản khi những quốc gia mới nổi (và đang tăng trưởng) như Brazil, Ấn Độ, Nga và Trung Quốc mưu cầu sự tiện nghi, thịnh vượng và an toàn về mặt kinh tế cho ngày càng nhiều người dân. Và chúng ta mới chỉ ở giai đoạn khởi đầu. Chỉ trong vòng 12 năm nữa, dân số thế giới sẽ tăng thêm khoảng 1 tỉ người, rất nhiều người trong số họ sẽ là nhà sản xuất và người tiêu dùng mới.
Thế nóng bức nghĩa là gì?
Từ nửa sau thế kỷ 20, giới khoa học bắt đầu nhận thấy các chất gây ô nhiễm vô hình - được gọi là khí nhà kính - đang tích lũy quá mức trên quy mô lớn, gây ảnh hưởng lên khí hậu. Các loại khí nhà kính này, chủ yếu là CO 2, sinh ra từ nguồn thải công nghiệp, sinh hoạt và phương tiện giao thông, không hề dồn thành đống ở bên đường, trên sông hay được đóng trong hộp hoặc vỏ chai rỗng, mà chúng lơ lửng trên đầu chúng ta, trong bầu khí quyển. Nếu như bầu khí quyển đóng vai trò như một cái chăn giúp điều tiết nhiệt độ Trái đất, thì khí CO 2tích tụ sẽ làm chiếc chăn này dày thêm và làm Trái đất nóng lên.
Để minh họa quá trình này, nhà hóa học năng lượng Nate Lewis ở Học viện Công nghệ California (Mỹ) mô tả như sau: “Hãy tưởng tượng bạn đang lái xe và cứ hết một dặm đường bạn lại ném nửa ký rác qua cửa sổ. Và tất cả những người đang lái xe hơi hoặc xe tải trên đường đều làm giống như bạn, bạn sẽ cảm thấy thế nào? Không hay ho gì. Đó chính xác là những gì chúng ta đang làm, chỉ có điều bạn không thể nhìn thấy được thôi. Khác là cứ mỗi dặm đường chúng ta lại vứt ra ngoài trung bình nửa ký CO 2và khí này đi vào bầu khí quyển”.
Những túi CO 2đó từ xe chúng ta bay lên và ở lại trong bầu khí quyển, ngoài ra còn có các túi CO 2từ các nhà máy nhiệt điện sử dụng than đá, dầu mỏ và khí tự nhiên, từ những vụ cháy rừng và phá rừng, qua đó giải phóng toàn bộ lượng carbon có trong cây cối và đất. Và khi chúng ta không quăng các túi CO 2ra ngoài không khí thì chúng ta lại thải các loại khí nhà kính khác như methane (CH 4) sinh ra từ canh tác lúa, khoan dầu, khai thác than, xác động vật phân hủy, từ các bãi chôn lấp rác thải rắn và, vâng, thậm chí cả khi gia súc ợ hơi nữa.
Gia súc ợ hơi? Đúng thế. Khí thải từ súc vật nuôi chứa rất nhiều methane, cũng như CO 2, khí này không màu và không mùi. Và giống CO 2, methane là một trong những loại khí nhà kính mà khi đã bị phát thải vào bầu khí quyển nó cũng hấp thu bức xạ nhiệt từ bề mặt Trái đất. “Ở cấp độ phân tử, khả năng giữ nhiệt của methane trong khí quyển cao gấp 21 lần CO 2là loại khí nhà kính có nhiều nhất” - tạp chí Science World ngày 21-1-2002 cho biết. “Với 1,3 tỉ con bò ợ hơi gần như cùng một lúc trên toàn thế giới (riêng Mỹ đã có 100 triệu con), không có gì lạ khi methane do súc vật nuôi thải ra là một trong những nguồn khí nhà kính chính trên toàn cầu” - theo Cơ quan Bảo vệ môi trường Mỹ (EPA)...
Tom Wirth thuộc EPA nói: “Đó là một phần trong quá trình tiêu hóa thông thường của súc vật. Khi chúng nhai lại, chúng ợ một phần thức ăn đã nuốt lên miệng để nhai và khí methane thoát ra”. Các nhà nghiên cứu khí hậu cho biết một con bò trung bình thải ra 600 lít khí methane một ngày.
Các chuyên gia về khí hậu đều thống nhất rằng nhiệt độ trung bình của Trái đất so với hồi năm 1750 đã tăng lên 0,8 OC và từ năm 1970 trở lại đây là thời kỳ nhiệt độ tăng nhanh nhất. Con số 1 OC thay đổi nghe có vẻ không nhiều, nhưng nó vẫn cho bạn thấy tình trạng khí hậu đang có cái gì đó bất ổn - cũng như khi nhiệt độ cơ thể bạn tăng hay giảm chút ít có nghĩa là trong người bạn đang có vấn đề.
_____________
Rất nhiều cơn đại hồng thủy đang xảy ra nhưng chúng ta vẫn thường giả bộ như việc đó xảy ra “ở đâu đó”. Và khi bàn về việc giải quyết vấn đề môi trường, chúng ta vẫn thường nói “để lại sau”.
2: “Để lại sau” là quá muộn
![]() |
Sức tàn phá của bão Katrina: hai chiếc tàu còn vướng trên đường cao tốc khi nước đã rút ở New OrleaAns. 80% diện tích thành phố này bị nước nhấn chìm trong bão. |
Chim hoàng yến đã chết
Sau khi cơn bão Katrina tràn đến Louisiana (Mỹ) vào tháng 8-2005, cũng như nhiều người khác tôi không chỉ thấy thất vọng. Cơn bão Katrina đem lại cảm giác bất an, đặt ra nhiều vấn đề về triết học cũng như về khí tượng học. Ai cũng biết cường độ bão nhiệt đới phụ thuộc nhiệt độ mặt nước biển, và khi Katrina liên tục mạnh lên khi di chuyển đến New Orleans thì nhiệt độ mặt nước biển ở vịnh Mexico cao hơn mức trung bình ở thời điểm này mọi năm khoảng 1 OC.
Các nhà khoa học nói rằng cơn bão Katrina mạnh như vậy vì nó đã đi qua “hải lưu vòng” - dòng hải lưu giống như một băng chuyền lưu chuyển nhiệt bức xạ mặt trời đi khắp vịnh. Theo nhiều nhà khí tượng học, sức mạnh bất thường của Katrina là do nước trong vịnh Mexico ấm hơn trước và họ tin nguyên nhân một phần là vì Trái đất nóng lên. Đó mới thật sự là vấn đề phức tạp.
Mười năm trước, mọi người thường nghĩ tình huống xấu nhất là toàn bộ các khối băng mùa hè ở Bắc cực sẽ biến mất vào năm 2070. Một vài người rất bi quan cho rằng thời điểm đó là năm 2040. Còn hiện giờ mọi người đều nói chúng sẽ tan hết chỉ trong vòng vài năm nữa. Hiện tượng băng Bắc cực liên tục tan đã gia tăng đáng kể vào mùa hè này. Một số nhà khoa học cho đây là dấu hiệu cảnh báo - rằng sự nóng lên của Trái đất đã vượt qua điểm giới hạn đáng ngại.
Chuyên gia khí hậu Jay Zwally của NASA cho biết: “Với tốc độ (tan băng) này thì đến cuối mùa hè năm 2012 Bắc Băng Dương sẽ gần như không còn băng, sớm hơn nhiều so với các dự đoán trước đây”. Zwally, hồi nhỏ từng làm việc ở mỏ than, nói: “Bắc cực thường được coi là con chim hoàng yến trong hầm lò cho biết mức độ khí hậu nóng lên. Giờ đây, con chim hoàng yến báo hiệu này đã chết. Đã đến lúc phải bắt đầu rời khỏi hầm lò”.
Tôi đến Úc tháng 5-2007 và gặp phải một đợt thiên tai mà người Úc gọi là “đại hạn hán”. Một đợt hạn kéo dài đã gần bảy năm và trở nên rất nghiêm trọng, đến mức vào ngày 19-4-2007 Thủ tướng John Howard đã phải kêu gọi người dân cùng nắm tay nhau và cầu trời có một cơn mưa lớn. Ông Howard tuyên bố nếu trời không mưa, ông sẽ phải cấm sử dụng nước ở vùng lưu vực sông Murray-Darling cho việc tưới tiêu, trong khi vùng này chiếm đến 40% sản lượng nông nghiệp toàn Úc. Người Úc bị sốc.
Nhưng ông Howard không hề đùa. Khi tôi phỏng vấn ông ở văn phòng thủ tướng tại Sydney , ông bảo: “Tôi đã nói với người dân là họ phải cầu mưa. Tôi không hề có ý mỉa mai gì trong đó cả”. Và điều buồn cười ở chỗ: thực tế trời đã bắt đầu mưa chút ít! Ông Howard kể tôi nghe câu chuyện của một nghị sĩ quốc hội, người Đảng Tự do như ông, sống ở vùng Mallee thuộc phía bắc bang Victoria , một trong những nơi bị ảnh hưởng nặng nề nhất bởi hạn hán. Ông này đã gọi cho Howard để kể rằng cuối cùng khi có mưa, bọn trẻ nhà ông đã sung sướng nhảy nhót giữa trời vì chúng đều chưa đến 6 tuổi và chưa hề biết tắm mưa là như thế nào. Trận “đại hạn hán” đã kéo dài từ lúc chúng ra đời cho tới lúc đó.
![]() |
Thomas Friedman. |
Không thể tiếp tục phá hoại rồi nghĩ rằng sẽ phục hồi sau
Jim Yardley, đồng nghiệp của tôi ở New York Times, đưa tin từ Trung Quốc (ngày 5-2-2007) cho biết con rùa cái mai mềm khổng lồ sông Dương Tử cuối cùng trên thế giới đang sống tại một vườn thú cũ nát ở Trường Sa (tỉnh Hồ Nam), trong khi con rùa đực duy nhất của loài này hiện đang sống tại một vườn thú khác ở Tô Châu, và cặp rùa già này là “hi vọng cuối cùng để duy trì nòi giống loài rùa nước ngọt được coi là lớn nhất thế giới”.
Yardley tả con rùa cái như sau: “Nó được cho ăn theo chế độ đặc biệt toàn thịt tươi, sống trong một bể nước nhỏ làm bằng thủy tinh chống đạn. Có một camera theo dõi mọi hoạt động của nó. Ban đêm có nhân viên bảo vệ. Mục tiêu rất đơn giản: con rùa này không được chết... Nó đã 80 tuổi và nặng hơn 40kg”. Còn con rùa đực không chắc lắm sẽ là bạn đời của nó thì “đã 100 tuổi và nặng hơn 90kg”.
Theo báo cáo gần nhất, các nhà khoa học dự định đầu tiên sẽ thử thụ tinh nhân tạo, sau đó (nếu thất bại) sẽ cho hai con ở chung một bể vào mùa sinh sản xuân 2008. “Đối với nhiều người Trung Quốc, rùa là con vật biểu trưng cho sức khỏe và sự trường thọ - Yardley viết - nhưng thiên tiểu thuyết về hai con rùa mai mềm khổng lồ này còn là biểu tượng cho tình trạng thiên nhiên hoang dã và đa dạng sinh học đang bị đe dọa ở Trung Quốc”, nơi mà sự ô nhiễm, săn bắn tự do và phát triển kinh tế quá nhanh đang phá hủy môi trường sống và tiêu diệt các loài động thực vật với tốc độ đáng sợ.
Đây không chỉ là vấn đề của các vườn thú... Tổ chức Bảo tồn quốc tế lưu ý cứ 20 phút, ngoài một loài sinh vật bị tuyệt chủng còn có 485ha rừng bị cháy, bị phá vì mục đích kinh tế. Lượng CO 2thoát ra từ phá rừng còn lớn hơn lượng phát thải của toàn bộ các phương tiện giao thông trên thế giới cộng lại, bao gồm ôtô con, xe tải, máy bay, tàu hỏa và tàu thủy. Độ che phủ rừng giảm có nghĩa môi trường sống của các loài sinh vật bị thu hẹp, do đó chúng phải di chuyển đi nơi khác hoặc thích nghi.
Những loài di chuyển hoặc thích nghi được thì sống sót, còn những loài không có khả năng đó sẽ tuyệt chủng. Lâu nay chúng ta phá hoại môi trường tự nhiên một cách thiếu suy xét và điều đó không khác gì con chim tự phá tổ, con cáo tự phá hang, con hải ly tự phá đập ngăn nước. Chúng ta không thể tiếp tục làm như vậy và giả bộ như việc đó xảy ra ở đâu đó. Và chúng ta không thể tiếp tục phá hoại rồi nghĩ rằng chúng ta sẽ phục hồi sau.
“Để lại sau” là hành vi xa xỉ của thế hệ trước, kỷ nguyên trước, nền văn minh trước, thời đại trước. Nhưng trong kỷ nguyên năng lượng - khí hậu hiện nay, với tốc độ tuyệt chủng của sinh vật và phát triển của con người ngày càng tăng, cụm từ “để lại sau” sẽ bị xóa khỏi từ điển. Trong thời gian biểu của bạn sẽ không thể có hành động “để lại sau” nếu bạn muốn làm những điều giống như hồi nhỏ. “Để lại sau” thì chúng sẽ biến mất, bạn sẽ không bao giờ còn làm được những việc đó nữa. “Để lại sau” nghĩa là quá muộn, vì thế nếu chúng ta muốn giữ lại bất cứ thứ gì, chúng ta phải làm ngay hôm nay.
_______________
Trong thế giới nóng bức, ngày càng bị ảnh hưởng bởi sự nóng lên của Trái đất, bạn hãy đoán xem ai là người chịu thiệt hại nhiều nhất? Chính là những người ít gây ra thực trạng đó nhất - những người nghèo nhất trên thế giới.
3: Nghèo năng lượng
Nếu bạn ngắm những bức ảnh vệ tinh chụp Trái đất ban đêm, bạn sẽ thấy vô cùng ấn tượng. Những tia sáng mỏng manh lung linh khắp châu Âu, châu Mỹ và châu Á, trong khi nhiều dải đất thuộc châu Phi lại tối đen như mực. Thực tế năng lượng chính là đứa trẻ mồ côi lâu nhất của châu Phi.
Có người sẽ đặt câu hỏi tại sao làn sóng nghèo đói, HIV/AIDS, nước kém an toàn và bệnh sốt rét ở đây có thể cải thiện được, còn năng lượng vẫn không được giải quyết? Theo Ngân hàng Thế giới (WB), hiện tại sản lượng điện hằng năm của Hà Lan đã bằng toàn bộ vùng Hạ Sahara của châu Phi, trừ Nam Phi, tức là 20 gigawatt. Cứ mỗi hai tuần, Trung Quốc sản xuất thêm 1 gigawatt điện, bằng với lượng điện 47 nước vùng Hạ Sahara sản xuất thêm trong một năm, không tính Nam Phi.
Khoảng cách cấp số nhân
Mặc dù mức chênh lệch sản lượng này là quá lớn, nhưng vấn đề nghèo năng lượng lại rất ít được đem ra thảo luận. Trong tám mục tiêu phát triển thiên niên kỷ do Liên Hiệp Quốc và các cơ quan phát triển quốc tế lớn nhất đặt ra hồi năm 2000 không có mục tiêu người dân trên toàn thế giới có điện sinh hoạt.
Các mục tiêu thiên niên kỷ này bao gồm từ giảm một nửa số người rất nghèo đói cho đến cung cấp giáo dục tiểu học cho trẻ em trên toàn cầu, và phải đạt được vào năm 2015. Làm sao chúng ta có thể xóa nghèo tận gốc nếu không xóa bỏ được tình trạng nghèo năng lượng?
Trong thế giới nóng bức, ngày càng bị ảnh hưởng bởi sự nóng lên của Trái đất, bạn hãy đoán xem ai là người chịu thiệt hại nhiều nhất? Chính là những người ít gây ra thực trạng đó nhất - những người nghèo nhất trên thế giới, không có điện, không có ôtô, không có nhà máy điện, và hiển nhiên là không có nhà máy để phát thải CO 2vào không khí. Rất nhiều người trong số 2,4 tỉ dân đang sống với mức thu nhập dưới 2 USD một ngày đang cư trú ở những vùng nông thôn và sinh kế phụ thuộc trực tiếp vào đất, rừng và các loại cây trồng.
50 năm trước, nếu bạn là một người nghèo sống ở một nước đang phát triển và không có điện, hẳn bạn rất thiệt thòi. Nhưng mặc dù giữa bạn và người dân các nước phát triển có khoảng cách rất lớn cũng không phải không thể vượt qua được. Bạn vẫn có thể viết thư bằng giấy và bút, vẫn có thể đi bộ đến bưu điện để gửi thư, vẫn có thể tìm ra một thư viện ở thủ đô và đọc sách in ngay cả khi bạn phải đi bộ đến năm mươi dặm. Nói cách khác, có sự chênh lệch, mặc dù lớn, nhưng không phải không thể vượt qua.
Hãy tua nhanh về thời hiện tại. Nếu không có điện, bạn không thể tiếp cận được với tất cả các thư viện, tất cả các hộp thư và gần như tất cả cửa hàng, nhà sản xuất trên thế giới. Vì nếu không có điện bạn không thể sử dụng được máy tính, trình duyệt, mạng Internet, trang web, Google, Hotmail hay bất cứ hình thức email hoặc thương mại điện tử nào. Do đó, bạn không thể tìm kiếm được thư viện trên mạng, không thể mua hàng với giá thấp nhất, không thể gửi hay nhận email với bất cứ ai từ bất cứ nơi nào trên thế giới và không thể viết thư, viết sách hay viết một kế hoạch kinh doanh trên màn hình - cách làm này cho phép bạn thực hiện động tác cắt dán chỉ bằng một cái nhấp chuột.
Có nghĩa là bạn không thể sử dụng những công cụ cơ bản nhất mà mọi người trên thế giới phẳng đều đang dùng để cạnh tranh, kết nối và hợp tác. Đó là lý do tại sao trong thế giới phẳng, khoảng cách giữa những người có điện và người không có điện đang tăng lên theo cấp số nhân chứ không phải theo cấp số cộng.
Chiếc Toyota Prius Hybrid và năng lượng sạch
![]() |
Chiếc xe Toyota Prius Hybrid là ví dụ về một hệ thống mới thay thế hệ thống cũ và tạo ra một vật có chức năng mới tốt hơn cả tập hợp các bộ phận của nó. |
Nhưng chúng ta không thể đi tiếp với hệ thống nhiên liệu bẩn đó nữa. Những hậu quả về năng lượng, khí hậu, đa dạng sinh học, địa chính trị và nghèo năng lượng nó gây ra sẽ làm suy giảm chất lượng cuộc sống của mọi cá nhân trên hành tinh này, và cuối cùng sẽ đẩy chính sự sống trên trái đất vào tình thế hiểm nghèo.
Không may là cho đến hiện tại, chúng ta chỉ tìm cách giải quyết những vấn đề mà từng thành tố của hệ thống nhiên liệu bẩn gây ra, mỗi lần lại phải xử lý một vấn đề thay vì thiết lập một hệ thống mới thay thế hệ thống cũ. Kết quả là khi chúng ta cố giải quyết một vấn đề thì lại gây ra hoặc làm trầm trọng thêm một vấn đề khác.
Chúng ta cần xây dựng hệ thống mới. Chiếc xe Toyota Prius Hybrid chính là ví dụ hoàn hảo về một hệ thống mới thay thế hệ thống cũ và tạo ra một vật có chức năng mới tốt hơn cả tập hợp các bộ phận của nó. Xe Prius không tốt hơn các xe khác mà là một hệ thống tốt hơn. Prius có phanh, tất cả các xe khác đều có phanh. Prius có ắc quy, tất cả các xe khác đều có ắc quy. Prius có động cơ, tất cả các xe khác đều có động cơ.
Cái mới ở Prius là người thiết kế ra nó coi nó là một hệ thống có thể thực hiện nhiều hơn một chức năng, chứ không chỉ là tập hợp của một loạt bộ phận có chức năng cơ bản làm quay bánh xe. Họ tự nhủ: “Thay vì dùng xăng trong bình, tại sao ta không dùng năng lượng từ phanh để tạo ra dòng điện, sau đó tích điện đó trong ắc quy để chạy xe cho đến hết thì thôi? Và khi xe Prius xuống dốc, ta cũng tích động năng sinh ra khi bánh xe quay vào ắc quy để dùng làm năng lượng cho xe lên dốc”.
Nói cách khác, bằng phương pháp tiếp cận hệ thống, từ việc tăng hiệu suất sử dụng nhiên liệu lên chút ít, Toyota đã thực hiện một bước nhảy vọt: một chiếc xe có thể tự tạo ra năng lượng. Toyota đã đi từ giải quyết một vấn đề (làm thế nào để tăng quãng đường đi được trên 1 lít xăng) tới một cải tiến hoàn toàn mới (làm thế nào để chiếc xe tự sản xuất ra năng lượng, đồng thời tiêu thụ ít năng lượng hơn).
Công ty này đã tạo ra một hệ thống với sản phẩm có giá trị hơn nhiều so với một chiếc xe đơn thuần chỉ là tập hợp các bộ phận của nó, nhờ đó những người lái xe bình thường như tôi và bạn cũng có thể làm được những điều phi thường như chạy 21,3km mà chỉ mất 1 lít xăng. Và khi bạn bắt đầu làm việc một cách có hệ thống, lợi ích đem lại sẽ là vô tận, và cơ hội có được cũng vô tận.
Xanh hóa chính là cách thu hút và giữ được những tài năng trẻ. Những luật sư hay nhân viên ngân hàng trẻ tuổi và tài năng muốn đi lại trong thành phố bằng loại xe hybrid hơn là xe Town Car! |
Giờ đây, thách thức của từng quốc gia và của cả nền văn minh là phải xây dựng được một hệ thống năng lượng sạch để bạn có thể làm được chính điều tôi vừa nói trên: cho phép những người bình thường có thể làm được những điều phi thường. Xây dựng hệ thống đó bao gồm tạo ra điện sạch, liên tục cải thiện hiệu suất sử dụng năng lượng và tài nguyên và tăng cường bảo vệ môi trường.
Đây là thách thức lớn nhất của chúng ta vì chỉ với hệ thống đó, toàn bộ nền kinh tế thế giới mới có thể tăng trưởng, không chỉ chấm dứt được việc làm trầm trọng hơn mà đồng thời còn hạn chế được mất cân bằng cung cầu năng lượng, vai trò thống trị của dầu mỏ, biến đổi khí hậu, mất đa dạng sinh học và nghèo năng lượng.
_____________
Thay vì đào mỏ hoặc khoan giếng sâu hơn vào lòng đất, bạn phải khai thác sâu hơn chính bản thân, công ty hoặc cộng đồng của bạn. Điều này đòi hỏi lối tư duy hoàn toàn mới.
4: Chiến thắng xanh
![]() |
Severn Suzuki phát biểu tại Hội nghị thượng đỉnh Trái đất Rio de Janeiro năm 1992: “Nếu các cô chú không biết cách khắc phục hậu quả thì xin đừng phá hoại thêm nữa!” |
Thay vì đào mỏ hoặc khoan giếng sâu hơn vào trong lòng đất, bạn phải khai thác sâu hơn chính bản thân, công ty hoặc cộng đồng của bạn. Thay vì khai thác mỏ của môi trường tự nhiên, bạn phải tạo ra một môi trường kiểu khác, đó là môi trường hợp tác trong đó bạn, công ty và cộng đồng của bạn thường xuyên phải suy nghĩ làm thế nào để tăng trưởng nhanh hơn, có nhiều phương tiện đi lại hơn, nhiều nhà ở hơn, được tiện nghi hơn, an toàn hơn, vui vẻ hơn, có nhiều dịch vụ hơn thông qua việc sử dụng nguồn điện sạch nhất, với ít tài nguyên nhất, theo cách thông minh nhất.
Quả táo lớn thành quả táo xanh
Vào năm 2005, David Yassky, thành viên Hội đồng thành phố New York và Jack Hidary, một chủ doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ, đã ngồi lại với nhau và nghĩ cách làm thế nào để New York trở nên dễ sống hơn và chiến thắng xanh được các thành phố khác đang cạnh tranh với New York, bằng cách làm cho taxi ở New York phát thải ít hơn.
Yassky và Hidary bắt đầu bằng việc hợp tác với ban quản lý taxi và Limousine để xem phải làm gì để thay thế loại taxi Ford Crown Victoria màu vàng rất tốn xăng hiện đang lưu hành - vốn chỉ chạy được 4,25km với mỗi lít xăng - bằng loại xe hybrid có hiệu suất sử dụng nhiên liệu cao hơn, đồng thời phát thải ít hơn.
Ban đầu người đứng đầu hiệp hội taxi là Matt Daus còn hoài nghi. Nhưng một khi thuyết phục được ông về tác dụng lên sức khỏe và những lợi ích khác mà xe hybrid mang lại thì ông tham gia ngay cùng với Yassky và Hidary. Và biện pháp thay thế taxi nói trên được hội đồng thành phố thông qua với tỉ lệ 50-0 vào ngày 30-6-2005. Hiện nay, hơn 1.000 xe trong số 13.000 taxi ở thành phố New York là loại xe hybrid, chủ yếu là Ford Escape, ngoài ra còn có xe Toyota Highlanders và Prius và các nhãn hiệu khác.
Sau khi bắt đầu xanh hóa đội xe taxi, Hidary, thị trưởng Bloomberg và Rohit Aggarwala - cố vấn cao cấp về phát triển bền vững của ông thị trưởng - lại hướng sự chú ý tới một vấn đề còn nghiêm trọng hơn: đó là khoảng 12.000 chiếc xe cao cấp Lincoln Town Car và các loại xe Limousine màu đen khác cũng gây ô nhiễm rất nhiều.
Hidary kể rằng ông rất ngạc nhiên khi nhanh chóng nhận được phản hồi của giám đốc các công ty. “Không những họ bày tỏ thái độ tích cực muốn được làm điều gì đó mà còn cho thấy điều quan trọng nhất chính là việc phải giữ được người. Họ nhận thấy rằng xanh hóa chính là cách thu hút và giữ được những tài năng trẻ. Những luật sư hay nhân viên ngân hàng trẻ tuổi và tài năng muốn đi lại trong thành phố bằng loại xe hybrid hơn là bằng xe Town Car!”.
Vào ngày 28-2-2008, Bloomberg tuyên bố bắt đầu từ năm 2009, tất cả những chiếc xe màu đen đều sẽ phải trở nên “xanh”. Chúng phải chạy được ít nhất 10,6km với một lít nhiên liệu, và đến năm 2010 thì phải đạt được 12,75km/lít.
Loại xe có kích cỡ tương đương xe Town Car chỉ có thể đáp ứng những quy định về phát thải và tiêu chuẩn sử dụng nhiên liệu này nếu chúng là xe hybrid. Sáng hôm sau ngày có tuyên bố đó, tờ Christian Science Monitor đã viết: “Tạm biệt xe Town Car (đi được 6,4km/lít xăng), và xin chào xe Toyota Camry hybrid (14,45km/lít xăng)”.
Mặc dù xe hybrid đắt hơn xe Town Car 7.000-10.000 USD/chiếc, nhưng Hidary nói rằng chủ xe hi vọng tiết kiệm được 5.000 USD tiền nhiên liệu mỗi năm, tương đương một nửa tổng chi phí nhiên liệu hằng năm hiện tại.
Khi Quả táo lớn (biệt danh của thành phố New York) trở thành Quả táo xanh, khi New York muốn chiến thắng xanh Chicago, Bắc Kinh hay Detroit thông qua việc xanh hóa toàn bộ taxi trong thành phố thì kết quả mang lại chỉ là những điều tốt đẹp. Mỗi năm có hơn 45 triệu lượt người đến thăm New York , họ đi ít nhất một chuyến taxi bằng xe hybrid và khi trở về nhà họ sẽ đặt câu hỏi: “Tại sao chúng ta không sử dụng taxi hybrid?”.
Khi mua một - mua không khí sạch nhờ taxi và Limousine sạch - bạn được tặng bốn: người lái xe vui vẻ hơn, hình ảnh thành phố đẹp hơn, phương tiện giao thông nhỏ hơn và có nhiều cải tiến liên quan đến xe hybrid hơn. Đó chính là lợi ích của chiến lược này.
Con cháu sẽ thấy chúng ta thật sự là ai
Vào tháng 7-2007, tôi tham gia một hội thảo về công nghệ xanh ở bang Colorado (Mỹ). Khi hội thảo kết thúc, nhà tổ chức nói họ muốn cho mọi người xem một đoạn băng tin tức cũ. Trên màn hình hiện ra hình ảnh hơi nhiễu của đoạn băng video quay từ Hội nghị thượng đỉnh Trái đất Rio de Janeiro năm 1992. Một cô bé 12 tuổi người Canada tên Severn Suzuki đang đọc diễn văn trong phiên họp toàn thể của hội nghị.
Bài phát biểu của Suzuki là một trong những diễn văn hùng hồn nhất của mọi tác giả ở mọi lứa tuổi mà tôi từng nghe, về mục tiêu chiến lược và đạo đức của một cuộc cách mạng xanh thật sự vào buổi bình minh của kỷ nguyên năng lượng - khí hậu. Sau đây là một trích đoạn:
Hôm nay cháu đến đây và không giấu giếm chương trình hành động của mình. Cháu đang đấu tranh cho tương lai của bản thân. Mất đi tương lai sẽ không giống như thất bại trong cuộc bầu cử hay thị trường chứng khoán mất vài điểm. Cháu đến đây để cất tiếng nói đại diện cho tất cả các thế hệ mai sau. Cháu đến đây để cất tiếng nói đại diện cho những trẻ em đang đói kém trên khắp thế giới nhưng không ai nghe thấy các em đang kêu khóc. Cháu đến đây để cất tiếng nói đại diện cho vô số loài động vật đang chết dần trên khắp hành tinh vì không còn nơi sinh sống.
Cháu sợ ra ngoài ánh nắng mặt trời vì những lỗ thủng trên tầng ozone. Cháu sợ hít thở không khí vì cháu không biết có những hóa chất gì trong đó. Mới chỉ vài năm trước cháu vẫn đi câu cá với bố ở quê là Vancouver, còn giờ đây cháu thấy lũ cá đều bị bệnh... Cháu chỉ là một đứa trẻ và cháu không biết hết mọi giải pháp, nhưng cháu muốn các cô chú hiểu rằng các cô chú cũng thế... Các cô chú không hề biết làm sao để các dòng sông chết có cá hồi trở lại. Và các cô chú không thể trả lại những cánh rừng ở nơi giờ là sa mạc. Nếu các cô chú không biết cách khắc phục hậu quả thì xin đừng phá hoại thêm nữa!...
Ở trường học, thậm chí ở cả trường mẫu giáo, các cô chú luôn dạy chúng cháu cách cư xử trong thế giới này. Các cô chú dạy chúng cháu không được đánh nhau, phải tìm cách giải quyết mọi vấn đề, phải tôn trọng lẫn nhau, phải dọn dẹp sạch sẽ, không làm tổn thương các sinh vật khác, phải biết chia sẻ chứ không nên tham lam. Vậy thì tại sao các cô chú lại làm ngược lại?
Bố cháu thường bảo: “Những việc con làm mới quan trọng chứ không phải lời con nói”. Vâng, những gì các cô chú đang làm khiến cháu phải bật khóc mỗi đêm. Người lớn nói rằng họ yêu trẻ em, nhưng cháu nghi ngờ điều đó. Xin hãy làm như lời các cô chú vẫn nói.
Mỗi khi nghe lại bài phát biểu tôi đều hơi ớn lạnh, nhất là câu nói: những việc bạn làm mới quan trọng chứ không phải lời bạn nói. Những gì chúng ta làm để đối mặt với thách thức năng lượng và khí hậu, bảo vệ môi trường và bảo tồn tự nhiên sẽ cho con cháu thấy chúng ta thật sự là ai. May mắn là chúng ta sinh ra vào thời kỳ vô cùng thịnh vượng với rất nhiều tiến bộ kỹ thuật.
Còn không may là để đưa sự thịnh vượng đến cho nhiều người hơn và đạt được tầm cao công nghệ mới, chúng ta không thể làm theo phương pháp cũ, tức là tiếp tục khai thác tài sản chung của thế giới và nghĩ rằng vũ trụ và thế giới tự nhiên quay xung quanh chúng ta chứ không phải ngược lại.
_____________
Chính quyền cần nói với bạn rằng từ giờ trở đi bạn phải trả toàn bộ chi phí ô nhiễm và CO 2mà bóng đèn sử dụng nhiệt điện than của bạn gây ra, do đó mỗi tháng bạn sẽ mất hơn 125 USD để được bật đèn. Khi đó khoản chi 100 USD một tháng để có năng lượng mặt trời sẽ có vẻ như một món hời.
5: Chính quyền phải làm gì?
Nate Lewis, nhà hóa học năng lượng thuộc Học viện Công nghệ California (Mỹ), đã dùng một ví dụ rất hay để giải thích tại sao tín hiệu giá có vai trò rất quan trọng trong việc khuyến khích cải tiến công nghệ trên diện rộng và triển khai điện sạch.
Ông nói như sau: “Giả sử tôi là người phát minh chiếc điện thoại di động đầu tiên. Tôi đến nói với bạn: “Tôi có một vụ mua bán hay ho cho bạn đây! Tôi vừa phát minh ra một chiếc điện thoại mà bạn có thể để trong túi áo!”. Chắc bạn sẽ nói: “Trời, một chiếc điện thoại có thể để trong túi áo? Thật à? Nó sẽ thay đổi cuộc sống của tôi đây! Tôi sẽ mua 10 cái cho tất cả nhân viên dùng”. Tôi bảo: “Mười cái, được! Nhưng tôi phải nói trước đây là thế hệ sản phẩm đầu tiên. Giá mỗi cái 1.000 USD đấy”.
Và bạn hẳn sẽ đáp: “Nghe cũng cao, nhưng đáng giá”. Thế là tôi bán cho bạn 10 chiếc điện thoại, bán cho độc giả tiếp theo 10 chiếc nữa, và độc giả tiếp nữa 10 chiếc khác. Sáu tháng sau, bạn đoán xem? Tôi quay lại gặp bạn với thế hệ điện thoại di động mới. Nó nhỏ hơn, nhẹ hơn, và có giá chỉ là 850 USD”.
Sân chơi bình đẳng
Giờ thì tôi đang kinh doanh thành công. Vì thế tôi quay lại phòng thí nghiệm của mình, lần này tôi phát minh ra đèn sáng bằng pin mặt trời. Tôi lại đến gặp bạn lần nữa và nói: “Bạn có nhớ cái điện thoại tôi bán cho bạn không? Nó làm việc tốt chứ? Giờ tôi có một vụ khác. Bạn có thấy chiếc đèn trên đầu bạn không? Tôi sẽ cấp điện cho nó bằng năng lượng mặt trời. Nhưng đây là một công nghệ hoàn toàn mới, nó không hề rẻ. Mỗi tháng bạn sẽ phải tốn thêm 100 USD để có đèn sáng bằng năng lượng mặt trời”.
Và bạn sẽ trả lời thế nào? Có lẽ bạn sẽ nói: “Ờ, anh nhớ cái điện thoại di động lần trước chứ? Nó đúng là đã thay đổi cuộc đời tôi. Tôi chưa từng có cái gì như thế. Nhưng anh thấy không, lần này đèn của tôi trước nay vẫn cứ sáng. Nó hoạt động tốt, và phải nói là tôi thật sự không quan tâm nó lấy điện từ đâu ra. Xin lỗi, nhưng tôi không mua đâu”.
Chính quyền phải tạo ra một sân chơi bình đẳng, bằng cách đánh thuế những sản phẩm chúng ta không muốn có (điện sản xuất từ nguồn phát thải carbon) và trợ cấp cho những sản phẩm mà chúng ta muốn có (điện sạch). Điều đó sẽ tạo ra cầu thị trường cần thiết, ở quy mô cần thiết. |
Chỉ có một cách thay đổi được suy nghĩ đó. Chính quyền cần nói với bạn rằng từ giờ trở đi bạn phải trả toàn bộ chi phí ô nhiễm và CO2 mà bóng đèn sử dụng nhiệt điện than của bạn gây ra, do đó mỗi tháng bạn sẽ mất hơn 125 USD để được bật đèn. Khi đó khoản chi 100 USD một tháng để có năng lượng mặt trời sẽ có vẻ như một món hời, và bạn sẽ mua mười bộ sản phẩm, các độc giả khác của cuốn sách này cũng thế.
Sáu tháng sau chuyện gì xảy ra? Tôi sẽ quay lại với hệ thống chiếu sáng bằng điện mặt trời tương tự, nhưng giá lần này chỉ 75 USD một tháng. Cuối cùng tôi sẽ đạt được mức chi phí còn thấp hơn cả chi phí của nhiệt điện than. Tôi sẽ đưa cải tiến kỹ thuật của mình lên sản xuất ở quy mô lớn.
Tất cả mọi người đều nói rằng xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ năng lượng tái tạo chính là sứ mệnh chinh phục mặt trăng của thế hệ chúng ta. Giá mà đúng như thế. “Xây dựng cơ sở hạ tầng năng lượng không phát thải không hề giống việc đưa người lên mặt trăng”, Nate Lewis giải thích. Quan trọng là phải nhớ rằng năng lượng sạch đem lại cho bạn môi trường mới chứ không phải chức năng mới. “Điện chỉ là điện. Không có điện xanh hay điện màu gì khác- Lewis nói - Điện nào cũng làm bóng đèn sáng cả. Điện không tìm được địa chỉ email, và cũng sẽ không sửa được lỗi chính tả cho bạn”.
Vì vậy, nếu chúng ta muốn có cả hai dạng cải tiến kỹ thuật ở quy mô lớn - những đột phá có thể dẫn tới phương pháp hoàn toàn mới để sản xuất điện sạch và những đột phá xuất phát từ công nghệ điện sạch đã có, thì chúng ta cần chính quyền phải tạo ra một sân chơi bình đẳng bằng cách đánh thuế những sản phẩm chúng ta không muốn có (điện sản xuất từ nguồn phát thải carbon) và trợ cấp cho những sản phẩm mà chúng ta muốn có (điện sạch). Điều đó sẽ tạo ra cầu thị trường cần thiết, ở quy mô cần thiết.
“Lý thuyết Porter”
![]() |
Ông khẳng định “các quy định môi trường phù hợp sẽ khuyến khích cải tiến công nghệ, dẫn tới giảm chi phí và cải thiện chất lượng sản phẩm. Kết quả là các công ty trong nước có ưu thế cạnh tranh cao hơn hẳn trên thị trường quốc tế và năng suất công nghệ cũng cao hơn trước”. Câu chuyện sau sẽ minh họa cho lý thuyết của ông.
Vào giữa thập niên 1970, các nhà sản xuất ôtô đã phản đối quyết liệt yêu cầu lắp bộ trung hòa khí thải để giảm độ độc hại của khí thải tạo ra từ động cơ. Trong phiên điều trần trước quốc hội năm 1972, phó chủ tịch Hãng General Motors đã tuyên bố nếu các công ty ôtô buộc phải lắp bộ trung hòa khí thải vào các mẫu xe năm 1975 thì “rõ ràng toàn bộ quá trình sản xuất sẽ bị ngưng trệ, và công ty, các cổ đông, người lao động, nhà cung cấp cũng như cả cộng đồng sẽ phải chịu thiệt hại rất lớn”.
Chủ tịch của Ford là Lee Iacocca thì nói: “Nếu không hủy bỏ quy định lắp bộ trung hòa khí thải thì Ford sẽ buộc phải đóng cửa, và hậu quả là tổng sản phẩm quốc dân sẽ giảm đi 17 tỉ USD; có thêm 800.000 người thất nghiệp và doanh thu thuế của chính quyền tất cả các cấp sẽ giảm đi 5 tỉ USD, chính quyền một vài địa phương sẽ rơi vào tình trạng vỡ nợ”. Tuy nhiên, bất chấp những tuyên bố đó, bang California vẫn áp dụng quy định này, buộc lắp bộ trung hòa khí thải vào năm 1975 và đến năm 1977 thì bắt buộc lắp bộ trung hòa khí thải ba lớp. Hãng Chrysler cho rằng họ sẽ mất thêm 1.300 USD chi phí cho mỗi chiếc xe để đáp ứng tiêu chuẩn ô nhiễm của liên bang năm 1975. Nếu tính theo giá trị đồng USD hiện tại thì số tiền này tương đương 2.770 USD. Ford ước tính chi phí tuân thủ tiêu chuẩn cho một mẫu xe Pinto là 1.000 USD (tương đương 2.130 USD theo giá năm 2004).
Tuy nhiên, trong một báo cáo được thực hiện vào năm 1972, văn phòng khoa học thuộc Nhà Trắng đã ước tính chi phí này chỉ là 775 USD (tương đương 1.600 USD theo giá năm 2004). Được hoãn đến năm 1981 mới áp dụng, chi phí thực tế để tuân thủ tiêu chuẩn là từ 875-1.350 USD tính theo giá năm 2002.
Trong khi đó, ô nhiễm không khí giảm đi rất rõ rệt, trời không hề sập và nền kinh tế Mỹ không hề bị chững lại như dự đoán. Kịch bản này đã lặp đi lặp lại nhiều lần với các loại tiêu chuẩn môi trường khác: các ngành công nghiệp, thậm chí nhiều khi ngay cả người ra chính sách cũng đánh giá quá cao chi phí mà nền kinh tế phải bỏ ra để đáp ứng được tiêu chuẩn cao hơn. Ở mức độ nào đó, không có gì phải nghi ngờ họ đã cố ý làm như vậy, nhưng trong chừng mực nhất định lý do cũng vì họ không nhận thấy hết vai trò của “những cải tiến kỹ thuật ngoài dự kiến”.
__________
* Thomas Friedman là nhà báo Mỹ, từng làm cho Hãng thông tấn UPI, sau đó chuyển sang làm phóng viên quốc tế của báo New York Times từ năm 1982. Ông đã ba lần được giải Pulitzer, trong đó có hai giải về tường thuật vấn đề quốc tế và một lần về bình luận. Các sách của Thomas Friedman như Từ Beirut đến Jerusalem , Chiếc Lexus và cây ôliu, Thế giới phẳng... đều bán chạy khắp thế giới. Riêng cuốn Thế giới phẳngnằm trong danh sách bán chạy nhất của New York Times suốt từ tháng 4-2005 đến tháng 5-2007.
* Cuốn Nóng, phẳng, chậtra mắt tại Mỹ cuối năm 2008. Bản tiếng Việt vừa được Nhà xuất bản Trẻmua bản quyền và xuất bản.