Những điều người bệnh viêm gan siêu vi B cần lưu ý
Quá trình viêm gan siêu vi B diễn tiến tuỳ theo bị nhiễm ở tuổi nào. Nếu ở tuổi trưởng thành sẽ có đến 90% tự khỏi và 10% chuyển sang mãn tính; ngược lại, nếu bị nhiễm lúc mới sinh hoặc ở tuổi nhỏ thì khả năng chuyển sang mãn tính rất cao, có nghĩa là đứa bé vẫn tiếp tục mang siêu vi trong người gần như suốt cuộc đời vì cơ thể không đủ sức loại bỏ siêu vi. Đó cũng là cơ sở khoa học của chương trình chủng ngừa viêm gan siêu vi cho trẻ em sau sinh.
Đối với những người bị viêm gan siêu vi B chuyển sang mãn tính, phần lớn vẫn ổn định và gan cũng ít bị huỷ hoại; chỉ có khoảng 2% mới có nguy cơ tiến triển sang xơ gan. Như vậy, trong 100 người trưởng thành bị viêm gan siêu vi B, chỉ có 10 chuyển sang mãn tính và 2 người tiến triển sang xơ gan. Thời gian từ lúc bị viêm gan siêu vi B cho đến khi xơ gan khác nhau tùy từng người, tuỳ chế độ sinh hoạt, điều trị và dinh dưỡng; có thể từ vài năm đến vài chục năm.
Còn về biến chứng ung thư gan, nguy cơ tuỳ thuộc vào bệnh nhân đã có xơ gan chưa, nam giới cao hơn nữ giới. Quan trọng là phải khám định kỳ mỗi 3-6 tháng để phát hiện sớm ung thư gan trong giai đoạn đầu.
Mặc dù viêm gan siêu vi B lây qua đường tình dục nhưng nếu được tiêm ngừa hiệu quả thì vợ, chồng hay bạn tình vẫn an toàn. Người phụ nữ bị viêm gan siêu vi B vẫn có thể có con. Việc lây nhiễm chủ yếu xảy ra trong lúc sanh và ngay sau khi sanh. Tuy vậy người mẹ vẫn có thể sanh con bình thường không cần phải mổ lấy con, nhưng điều quan trọng là phải tiêm ngừa viêm gan siêu vi B cho bé ngay sau khi sinh. Cho đến nay vẫn không có bằng chứng về việc viêm gan siêu vi B lây qua sữa mẹ, nên bà mẹ bệnh vẫn có thể cho con bú.
Trong viêm gan cấp, cần một chế độ nghỉ ngơi và ăn uống hợp lý, không cần phải kiêng ăn quá mức, trái lại còn phải ăn đầy đủ các chất để có năng lượng cần thiết giúp gan phục hồi nhanh và cơ thể mau lấy lại sức. Nguyên tắc là cung cấp đầy đủ chất đạm như một người bình thường, với các loại có giá trị dinh dưỡng cao nhưng ít chất béo như lòng trắng trứng, thịt bò, thịt heo, cá, tàu hủ, sữa không béo…
Tăng chất bột đường dễ hấp thu như gạo, ngũ cốc, đường, mật ong và hoa quả ngọt như chuối, mít, nhãn, xoài…
Nên giảm bớt - chứ không cữ hoàn toàn - chất béo như mỡ, bơ, dầu; không ăn các thức ăn có nhiều cholesterol như óc, tim, gan, lòng heo, lòng bò, lòng đỏ trứng vì sự bài tiết mật có thể bị giảm hoặc tắc nên không tiêu hoá hết các chất béo. Chất béo chỉ sử dụng độ 10% tổng năng lượng tức là khoảng 15 gam/ngày.
Ăn nhiều rau quả để cung cấp chất khoáng và các vitamin cần thiết cho hoạt động của gan. Bỏ hẳn rượu, bia và các thức uống có cồn cho đến khi gan hồi phục hoàn toàn. Cần thận trọng khi sử dụng thuốc vì có một số thuốc gây độc cho gan như thuốc an thần, các thuốc kháng viêm giảm đau, paracetamol…
Nên chia bữa ăn ra thành nhiều bữa nhỏ trong ngày, ăn từng ít một, đừng ăn một lần quá no. Ăn nhiều vào buổi sáng để tránh đầy bụng và dễ nôn sau khi ăn.
Khi gan bị viêm mãn tính, phần lớn không có triệu chứng, bệnh nhân cảm thấy bình thường mặc dù gan có thể bị huỷ hoại ngày một nặng hơn. Một số bệnh nhân có cảm giác mệt mỏi và ăn uống kém.
Chế độ ăn vẫn phải cân đối giữ các chất đường, đạm, béo… và cung cấp đầy đủ năng lượng. Ăn uống đủ chất sẽ giúp cho bệnh nhân cảm thấy khoẻ hơn và cơ thể có đủ sức chống lại tình trạng nhiễm trùng hay các tác dụng phụ của thuốc.
Hạn chế các thức ăn quá nhiều dầu mỡ, mà chọn các loại dễ tiêu như đầu nành, đậu hủ, đậu xanh… Ở bệnh nhân gan mãn tính, khả năng dự trữ chất glycogen bị giảm, cho nên cần cung cấp đều đặn chất bột đường như bánh, trái cây ngọt để tránh những cơn mệt lả, vã mồ hôi do giảm lượng đường trong máu.
Nguồn: Thuốc & Sức khoẻ, số 298 (15/12/2005)







