Nhôm và sức khỏe con người
Là kim loại chiếm tỉ lệ cao nhất ở vỏ Trái Đất (8%), nhôm (aluminium) được tìm thấy trong đất, nước và không khí. Đặc điểm vật lý và hoá học của nhôm biến nó thành một loại kim loại lý tưởng, được sử dụng trong rất nhiều lĩnh vực khác nhau, từ chế tạo thân máy bay cho tới sản xuất thực phẩm, dược phẩm, đồ dùng nhà bếp và các vật dụng sinh hoạt khác.
Nhôm và các hợp chất của nhôm thường được dùng trong chất phụ gia thực phẩm, trong dược phẩm, trong các sản phẩm tiêu dùng (như đồ dùng nhà bếp) và trong xử lý nước uống (các chất lắng lọc nước…).
Nhôm vào cơ thể từ những nguồn nào?
Vì nhôm hiện diện trong khắp môi trường sống và trong nhiều sản phẩm tiêu dùng, không thể nào con người tránh được việc phơi nhiễm nhôm ở một mức độ nào đó, từ những nguồn: thực phẩm, dược phẩm, nước uống, không khí.
Thực phẩm
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), nhôm hiện diện tự nhiên trong đa số thực phẩm hoặc trong thực phẩm có chất phụ gia có chứa nhôm. Tổ chức Health Canada(Y tế Canada ) ước tính khoảng 95% lượng nhôm đưa vào cơ thể hàng ngày đối với người lớn đến từ thực phẩm.
Nhôm cũng có thể thâm nhập vào thực phẩm từ các công cụ nấu nướng (nồi, chảo, ấm…), vật dụng sinh hoạt và các loại bao gói… Nhưng nhiều nghiên cứu cho đến nay cho thấy lượng nhôm những nguồn này là không đáng kể, nếu những vật dụng như thế được sản xuất đúng theo tiêu chuẩn sản phẩm.
Thực phẩm có nhôm cao là khoai tây, cải bi-na và trà. Những sản phẩm chế biến từ sữa, bột mì và sữa dinh dưỡng cho trẻ nhỏ có thể có hàm lượng nhôm cao nếu chúng có chứa chất phụ gia có nhôm cao.
Dược phẩm
Theo WHO, nhôm vào cơ thể hàng ngày có thể tăng mạnh ở những người sử dụng thuốc có hàm lượng nhôm cao như antacid (chất làm giảm acid trong dạ dày) và acetylsalicylic acid (ASA) có lớp bọc. WHO ước tính những ai sử dụng đều đặn những dược phẩm như thế có thể đưa nhôm vào cơ thể ở mức 5g nhôm mỗi ngày.
Nước uống
Theo WHO, nồng độ nhôm trong các nguồn nước tự nhiên trên thế giới khác nhau rất nhiều, tuỳ thuộc vào các đặc điểm lý-hoá và khoáng vật học ở mỗi nơi.
Nồng độ nhôm hoà tan trong các nguồn nước có giá trị pH gần mức trung tính thường từ 0,001 đến 0,05 mg/lít với nguồn nước chứa nhiều axit nồng độ nhôm có thể tới 90 mg/l. Lượng nhôm vào cơ thể theo nguồn nước là rất nhỏ. Nhưng một số nhà khoa học cho rằng nhôm trong nước được cơ thể hấp thu tốt hơn trong thực phẩm. Ngay cả khi nhôm đạt mức cao nhất cho phép trong nước uống là 0,2 mg/lít theo tiêu chuẩn châu Âu, thì nếu một người uống 2 lít nước/ngày thì lượng nhôm vào cơ thể chỉ là 0,4 mg, tức không bằng 1/10 mức trung bình của lượng nhôm vào cơ thể hàng ngày từ thực phẩm.
Theo Cơ quan Bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (EPA), nồng độ nhôm trong nước tự nhiên (chưa xử lý) nói chung là từ 0,001 đến 1mg/l, mặc dù nồng độ có thể tăng cao đến 25 mg/l. Nói chung, nồng độ nhôm trong nước rất khác nhau tuỳ nguồn.
Không khí
Lượng nhôm vào cơ thể từ không khí không bị ô nhiễm nói chung là rất thấp, dưới 4 microgram/ngày. Tuy nhiên, tại các khu công nghiệp ô nhiễm, lượng nhôm đưa vào cơ thể có thể đạt đến 100 microgram/ngày. Những công nhân phơi nhiễm nhôm do đặc điểm nghề nghiệp có thể hít phải một lượng nhôm từ 3,5 – 4 mg/ngày.
Theo tổ chức Alzheimer Scotland , một lượng nhôm từ không khí sẽ tiến vào phổi nhưng khó có thể thâm nhập vào các bộ phận khác trong cơ thể.
Nhôm có ảnh hưởng gì đến sức khoẻ con người?
Việc hấp thụ nhôm của cơ thể sẽ khác nhau, tùy thuộc vào nhiều nhân tố, như loại hợp chất nhôm, thành phần của thực phẩm, tuổi tác và sức khoẻ của người sử dụng thực phẩm có chứa nhôm. Theo Tổ chức Sức khỏe Canada, việc đưa vào cơ thể một lượng lớn nhôm có thể gây ra bệnh thiếu máu, chứng nhuyễn xương (osteomalacia), sự không dung nạp glucose và ngưng tim.
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ nhất về kim loại và não, được tổ chức tại Ý năm 2000, các nhà khoa học cho rằng đặc tính thần kinh của nhôm đã được biết từ hơn 1 thế kỷ qua. Gần đây, nhôm bị xem là nguyên nhân gây ra tình trạng bệnh lý (bệnh não, bệnh xương, chứng thiếu máu) có liên quan đến điều trị thẩm tách (dialysis treatment).
Ngoài ra, cũng có giả thuyết cho rằng nhôm là một nhân tố góp phần trong việc gây ra các bệnh suy thoái thần kinh, trong đó có bệnh Alzheimer (sa sút trí tuệ ở người cao tuổi), mặc dù những chứng cứ tìm thấy trong các nghiên cứu tại nhiều nước khác nhau vẫn còn đang gây tranh cãi, chưa đi đến kết luận cuối cùng.
Cũng có những nghiên cứu cho thấy có thể có sự liên quan giữa lượng nhôm đưa vào cơ thể với bệnh xơ cứng và teo cơ bên (bệnh Lou Gehrig) và bệnh Parkinson (bệnh liệt rung, thường xảy ra ở người cao tuổi). Ngoài ra, nhiều nghi vấn cũng đặt ra về nguy cơ sức khỏe tiềm tàng đối với những trẻ em uống sữa có chứa nhôm.
Theo Giáo sư TSKH Lê Huy Bá, Viện trưởng Viện Khoa học – Công nghệ môi trường “một lượng nhỏ nhôm cũng gây độc hại”. Nhôm (Al) đi vào máu có tác động lên hệ thần kinh. Do nhôm không cần thiết cho cơ thể trong quá trình xây dựng tế bào hay các cơ quan chức năng, có nghĩa là nhôm rất dễ quá nhiều và không phải là nhu cầu của cơ thể. Tuy nhiên trong quyết định số 8671 QĐBYT ban hành ngày 8/4/1998 chỉ quy định tiêu chuẩn hàm lượng 8 kim loại nặng trong các thực phẩm, dụng cụ bảo quản thực phẩm, dụng cụ bảo quản nấu ăn bao gồm: As, Cu, Pb, Ni, Sn, Hg, Cơ, Sơ mà không có nhôm.
Hiện chưa có nghiên cứu đầy đủ về tác hại của nhôm đối với cơ thể con người nhưng chỉ cần 125 ppm nhôm đã làm chết lúa.
Môi trường quá chua, tính độc hại của nhôm càng cao. Đựng thức ăn nóng, chua bằng đồ nhôm sẽ giải phóng các ion nhôm vào thức ăn và vào cơ thể gây nên hội chứng lú lẫn sớm. Bình thường tế bào thần kinh không có ion nhôm, nhưng nó nhạy cảm với ion này, nên nó tích tụ lại làm cho tế bào thần kinh biến tính dần tới lú lẫn làm trí nhớ giảm, phản ứng trì trệ, cử động chậm chạp, trí năng giảm, cười khóc bất thường. Thậm chí ion nhôm có thể thay thế các ion đồng hình khác khiến hoạt tính của protein của các ion cơ thể bị hỏng và gây những biến thể. Ông đã nghiên cứu nước phèn chua Al 2(SO 4) 3thấy nó thấm qua da, qua đường tiêu hóa nhiều gây tê cứng đầu lưỡi. Những người sống ở vùng nước phèn thường còi cọc yếu kém.
Với liều lượng cao, nhôm có thể gây hôn mê. Tuy với lượng ít có thể gây chán ăn, mệt mỏi, khó chịu, choáng váng. Để đề phòng không nên dùng đồ đựng, nấu thức ăn bằng nhôm nhất là dùng muối dưa, làm nộm chua, nấu canh chua, bằng nồi nhôm.
Đồ dùng bằng nhôm phế liệu là rất nguy hiểm đến sức khỏe.
Phòng ngừa
- Không dùng đồ nhôm đựng thức ăn lâu, qua đêm, nhất là thức ăn nóng.
- Không dùng đồ nhôm muối dưa, nấu canh chua, đánh trứng, làm nem, nấu mặn…
- Không dùng đồ nhôm tái sinh không rõ nguồn gốc.
Tại Hội nghị về kim loại và não nói trên, các chuyên gia đã đưa ra nhiều khuyến cáo liên quan đến nhôm, trong đó có những điểm quan trọng sau đây:
- Hàm lượng nhôm nên được công bố trong tất cả các loại thực phẩm và dược phẩm.
- Hàm lượng nhôm trong nước tiểu cũng là một chỉ thị về mức độ hấp thụ nhôm của cơ thể; tỉ lệ nhôm được hấp thụ hay bài tiết tuỳ thuộc vào tính toàn vẹn của chức năng thận qua đó kiểm tra hàm lượng nhôm trong cơ thể một cách có hiệu quả.