Nhà thờ Kitô giáo ở Hội An và sự ra đời chữ Quốc ngữ
Tuy nhiên, trước thế kỷ XVI, vào những năm 1318 và 1324, một số giáo sĩ phương Tây đang truyền giáo tại Trung Hoa , trong đó có Odoric De Pordeone cũng đã ghé thăm vương quốc Champa với mục đích tìm kiếm mảnh đất mới để gieo hạt giống Tin Mừng song bất thành vì lúc này Bàlamôn giáo đang là quốc giáo của đất nước này. Công cuộc truyền giáo của các giáo sĩ ở Hội An, Đàng Trong vào thế kỷ XVI không được ghi lại và có lẽ kết quả đạt được cũng không bao nhiêu vì các nhà truyền giáo đến hoạt động theo từng chuyến tàu buôn và không thông hiểu về ngôn ngữ . Năm 1523, giáo sĩ Duark Coelh đến vùng biển Hội An và đã tạc lên đảo Cù Lao Chàm một hình Thánh giá lớn để làm lưu niệm. Bắt đầu từ thế kỷ XVII, hoạt động truyền giáo của các giáo sĩ tại Hội An nói riêng, Đàng Trong nói chung gặt hái nhiều kết quả hơn.
Năm 1567 , người Nhật và người Trung Hoa đến buôn bán chính thức ở Hội An. Được sự cho phép của các chúa Nguyễn, người Nhật và người Trung Hoa đã xây dựng ở Hội An hai khu phố riêng như mô tả của C. Borri, Thích Đại Sán. Năm 1614 , chính quyền Nhật thực hiện chính sách cấm đạo và trục xuất những giáo sĩ nên bắt đầu từ đây có rất nhiều giáo dân Nhật Bản đến Hội An và Tòa Giám Mục Macao cũng chuyển hướng truyền giáo sang Việt Nam để giúp đỡ các giáo dân Nhật về mặt tinh thần và tìm kiếm mảnh đất mới . Năm 1615,Tòa Giám mục Macao cử đến Hội An một phái đoàn Dòng Tên để lập ra giáo đoàn Đàng Trong. Phái đoàn này gồm có giáo sĩ Francesco Bozomi, Diego Carvalho và 3 thầy dòng trong đó có 2 thầy dòng người Nhật. Phái đoàn đặt chân lên đất Đà Nẵng ngày 18.1.1615 và lập ở đây ngôi nhà thờ đầu tiên , sau đó vào Hội An – Thanh Chiêm. Đến ngày lễ Phục sinh (đầu tháng 4 năm 1615), phái đoàn truyền giáo rửa tội cho 10 giáo hữu tiên khởi, trong gần một năm có hơn 300 người theo đạo và các giáo sĩ xây dựng ngôi nhà thờ thứ hai ở Thủ phủ dinh (Thanh Chiêm), công cuộc truyền giáo của các giáo sĩ ở Hội An thực sự kết quả. Hội An là điểm đến, lưu trú, ẩn trú, giảng đạo của các giáo sĩ nước ngoài suốt thời gian dài.
Theo Hội An Công giáo(Tài liệu kỷ niệm 385 năm giáo xứ Hội An), giáo xứ Hội An được các giáo sĩ Bozomi, Carvalho và các thầy dòng thành lập vào năm 1615. Trong thời gian từ năm 1615 - 1665 , ở Hội An có 3 cộng đoàn Kitô giáo. Một cộng đoàn người Nhật có nguyện đường tại địa điểm bây giờ là đình Cẩm Phô, cộng đoàn người Hoa có nguyện đường ở đường Cantinaise cũ (?), còn cộng đoàn người Việt có nguyện đường ở phường Sơn Phong. Năm 1643 , trụ sở truyền giáo của các giáo sĩ ở Hội An là một trong hai trụ sở chính của giáo đoàn Đàng Trong. Trụ sở ở Hội An có nhà chung (nhà thờ) cho bổn đạo và nhà riêng cho giáo sĩ A.D. Rhodes và các thầy giảng. Năm 1675 , giáo sĩ Conrtaulin xây dựng một nhà thờ tại Hội An phố. Vào giữa thế kỷ XVII, một số giáo sĩ của Hội Truyền Giáo ngoại quốc Pháp (Hội Thừa sai Paris) được cử đến Hội An, người đầu tiên là giáo sĩ Louis Chevreuil ( 1644 ), tiếp đến là Lambret la Motte ( 1659-1679 ), Luy Laneun ( 1680-1682 )… Những giáo sĩ Hội Thừa sai Paris đã xây dựng ở Hội An trụ sở truyền giáo riêng của mình bên cạnh trụ sở truyền giáo của các giáo sĩ Dòng Tên. Từ cuối thế kỷ XVII, cùng với những biến động về chính trị - xã hội, công cuộc truyền giáo bị gián đoạn, các nhà thờ đều hoang phế. Năm 1914 , một số giáo dân quy tụ về Hội An xây dựng ngôi nhà nguyện mới bằng tranh gỗ tại địa điểm nhà thờ Kitô giáo Hội An hiện nay. Hơn 20 năm sau, năm 1935 , linh mục Pierre Gallioz thay thế bằng ngôi nhà thờ kiên cố theo kiến trúc Gothique. Năm 1965 , nhà thờ này bị hạ giải thay vào đó là ngôi nhà thờ mới với kiểu dáng như hiện nay.
Ngôi nhà thờ hiện tại nằm trong khuôn viên khá rộng, xung quanh có tường rào xây bằng gạch. Lối vào nhà thờ là cổng tam quan cách điệu hình mái nhà, trên đỉnh cổng đặt hình cây Thánh giá. Phía sau cổng là khoảng sân rộng rãi với bên trái là hang đá lớn nằm bên dưới cây cổ thụ, bên phải là đồi cỏ - giả sơn và khu mộ các vị giáo sĩ phương tây. Thánh đường được xây dựng theo kiến trúc “Gothique mới” kết hợp với lối kiến trúc nhà ở truyền thống Hội An. Nội thất thánh đường phân thành ba không gian chính với chức năng riêng gồm: khu vực dành cho cộng đoàn tham dự Thánh lễ, khu Cung thánh dành cho linh mục quản xứ cử dâng Thánh lễ và phòng áo.
Theo nhiều nguồn tư liệu, trong lịch sử, nhà thờ Kitô giáo ở Hội An từng là điểm đến của các giáo sĩ Dòng Tên, Hội Thừa sai Paris ở Hội An nói riêng và Đàng Trong nói chung. Cuối năm 1615, sau gần một năm đến giảng đạo tại Hội An, Đàng Trong, giáo sĩ Bozomi và Carvalho đã rửa tội cho 300 người theo đạo. Năm 1617, giáo sĩ Francesco Di Pina đến cư trú ở nhà thờ Hội An để giảng đạo tại Hội An – Thanh Chiêm đến khi qua đời. Ông là người đầu tiên nghiên cứu và giảng đạo bằng tiếng Việt. Năm 1618, một phái đoàn gồm giáo sĩ Pedro Marquez làm tuyên úy và Cristoforo Borri làm phụ tá đến Hội An. Hai giáo sĩ lưu trú tại nhà thờ Hội An một thời gian và đi truyền giáo khắp Đàng Trong. C. Borri là người phương Tây đầu tiên viết và in sách mô tả về Đàng Trong. Năm 1624, giáo sĩ Alexandre de Rhodes đến Đàng Trong. Ông ở tại nhà thờ Hội An một thời gian để học chữ Quốc ngữ từ cha Pina, các thầy giảng với một em bé người Việt. Trong 3 năm đầu, với sự cộng tác của các thầy giảng người Việt, ông đã rửa tội được 6700 người theo đạo trong đó có bà vợ của ông Tổng trấn Qui Nhơn. Các lần đến Đàng Trong sau này, trong thời gian cấm đạo ông đều ở tại nhà thờ Hội An. Ông là người sáng lập ra Giáo đoàn Đàng Ngoài, lập Hội Thầy giảng. Từ tháng 7 đến tháng 12 năm 1640, A.D. Rhodes cùng các thầy giảng đã rửa tội cho 1305 người theo đạo ở Hội An. A.D. Rhodes là người nghiên cứu hoàn thiện chữ Quốc ngữ và in sách bằng chữ Quốc ngữ. Ngoài các giáo sĩ Dòng Tên nói trên còn có các giáo sĩ Hội Thừa sai Paris như Lambret la Motte (1659-1679), Luy Laneun (1680-1682), Culielm Mahot (1682-1684), Francisco Perez(1684-1728), Carola Marino Lable (1697-1723), Alexandro de Alexandris (1726-1738), Juan Valere Rist (1735-1737). Trong đó L.Motte là người đã triệu tập các thầy giảng cùng các thủ lãnh giáo khu ở Đàng Trong để nghiên cứu tình hình và tạo hòa khí giữa các giáo sĩ Dòng Tên và các giáo sĩ Dòng Thừa sai Paris .
Nhà thờ Kitô giáo ở Hội An là nơi các giáo sĩ học tiếng Việt, sáng lập chữ Quốc ngữ, là nơi giao lưu tiếp xúc văn hóa Đông – Tây. Trong quá khứ, nhà thờ Kitô giáo ở Hội An là nơi mà các giáo sĩ tập trung một số lễ vật sản phẩm của nền khoa học phương Tây để dâng tặng cho các chúa Nguyễn. Lễ vật mà các giáo sĩ dâng tặng cho chúa Hiền Nguyễn Phước Tần vào năm 1676 gồm: 2 cây vải hồng mịn, 1 hộp bạc chạm trổ lớn và 4 hộp nhỏ, 2 gương soi Venise bọc da lừa có đính bằng bạc, 1 đồng hồ có chuông điểm giờ, nửa giờ, 15 phút, 1 cây hàng mỹ Hoà Lan, 2 gram giấy mạ vàng, 1 kính viễn vọng, 1 kính hiển vi cỡ lớn và 1 cỡ nhỏ, 2 kính lấy lửa tạo được sức nóng chảy bạc dưới ánh mặt trời, 1 bật lửa hình khẩu súng nhỏ bằng bạc. Tháng 1 -1642, A.D. Rhodes đến Hội An đã mang theo một số đồng hồ dâng tặng cho chúa Thượng.
Để công việc truyền giáo ở Đàng Trong đạt được kết quả, ngoài việc sử dụng các thầy giảng người Nhật hoặc phải thông thạo tiếng Nhật để giao tiếp, các giáo sĩ phương Tây ở Hội An còn nghiên cứu tiếng Việt và Latinh hóa âm tiếng Việt. Được sự trợ giúp của các thầy giảng người Việt và một số giáo hữu cũng như vận dụng kinh nghiệm việc Latinh hóa âm tiếng Hoa và tiếng Nhật, các giáo sĩ đã sáng lập ra chữ quốc ngữ. Người đi tiên phong trong việc nghiên cứu và Latinh hóa tiếng Việt là giáo sĩ Di Pina . Ông sống ở Hội An từ năm 1617 – 1625, là người mà theo A.D. Rhodes nhận xét khi đến Hội An vào năm 1624: “ Cha Francesco Di Pinathì khác, ông nói tiếng Việt khá tốt và tôi nhận thấy những bài thuyết giáo của ông có ích hơn bài của các cha khác”. Cha Pina đã soạn cuốn Sách học chữ quốc ngữ,nghiên cứu ngữ âm và ngữ pháp tiếng Việt . Năm 1624, A.D. Rhodes đến Hội An và học tiếng Việt, sau ba tuần đã nói được tiếng Việt, 6 tháng sau đã thông thạo tiếng Việt. Từ những nghiên cứu của mình khi còn ở Hội An cũng như thừa hưởng kết quả nghiên cứu của Di Pina và hai cuốn từ điển Việt – Bồcủa Amiral, Bồ - Việt của Barbosa, A.D. Rhodes soạn và in hai cuốn sách viết bằng chữ Quốc ngữ Việt đầu tiên vào năm 1651 là cuốn Phép giảng 8 ngàyvà từ điển Việt – Bồ - Latinh. Sự ra đời của hai cuốn sách này cũng là thời điểm đánh dấu sự ra đời của chữ Quốc ngữ.
Toạ lạc tại số 2 đường Nguyễn Trường Tộ, nhà thờ Kitô giáo ở Hội An (Église de Hoi An – Hoi An Catholic Church) hiện nay là một di tích biểu hiện sâu đậm mối quan hệ giao lưu văn hoá Đông – Tây trong lịch sử tại Hội An (Faifo), góp phần tạo nên những mảng màu mới trong bức tranh văn hoá Hội An.