Liên hiệp các hội và khoa học kỹ thuật Việt Nam
Thứ tư, 12/03/2008 15:21 (GMT+7)

Nguyễn Mạnh Tường - Người lập kỷ lục trên đất Pháp

Đó là lời chào ấn tượng của vị hiệu trưởng dành cho người cựu học sinh quốc tịch Việt Nam, năm 1989, khi Nguyễn Mạnh Tường có dịp trở lại mảnh đất nơi ông đã thành tài.

Luận văn là một kiệt tác

Ngày 29/5/1932, nhật báo Le petit Meridionalxuất bản ở thành phố Montpellier đăng bài diễn văn của Chủ tịch Hội đồng giám khảo trường Đại học của thành phố, nhận xét về luận án của một nghiên cứu sinh Việt Nam. Vị Chủ tịch phải thốt lên những lời mang tính ngoại lệ: “Luận văn của Ngài quả là một tác phẩm pháp lý, hơn nữa còn là một tác phẩm pháp lý và văn học. Nền tảng của tác phẩm thật là vững vàng và không hề có một lời chỉ trích nào. Cả hình thức cũng thật xán lạn... Công trình nghiên cứu của Ngài thực sự là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh.

Đại học Montpellier rất hân hạnh được chứng kiến Ngài đã thành công huy hoàng trong cả hai khoa khác nhau. Cử nhân Luật khoa vào năm 22 tuổi, Ngài đã sẵn sàng để trở thành Tiến sĩ Văn chương. Điều đó thực sự lập nên một kỷ lục, và trên đất Pháp này, người ta chưa từng thấy bao giờ một vị tiến sĩ văn chương 22 tuổi...

Còn đối với tác phẩm pháp lý của Ngài, chúng tôi chỉ có thể nói lên một lời duy nhất thật tốt đẹp và cũng thật đầy đủ rằng luận văn này thật mạnh mẽ, nó là một kiệt tác với đầy đủ ý nghĩa của từ này, nó làm chúng tôi phải suy nghĩ. Tác phẩm này thật xứng đáng với Ngài và nó làm vẻ vang cho tất cả Khoa Luật của trường đại học. Hội đồng giám khảo xin dành cho Ngài số điểm cao nhất và với lời phê: “Xuất sắc với lời khen ngợi của cả Hội đồng”.

Tên gọi của luận văn ấy là “Cá thể trong thành phố An Nam cổ xưa - tiểu luận tổng hợp về Bộ Luật của nhà Lê (thế kỷ XV)”. Và tác giả được Hội đồng trân trọng gọi bằng “Ngài” ấy là chàng trai Việt Nam 22 tuổi Nguyễn Mạnh Tường.

Dư luận cảm phục - Thực dân e ngại

Nguyễn Mạnh Tường sinh ngày 16/9/1909 tại phố Hàng Đào, vốn gốc ở xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội trong một gia đình rất coi trọng việc học. Ở tuổi 16, Nguyễn Mạnh Tường đã hoàn thành tấm bằng tú tài triết học loại ưu tại một trong những Trường trung học danh giá nhất Đông Dương, mang tên viên Toàn quyền Albert Sarraut. Cũng nhờ học lực xuất sắc mà mới 16 tuổi, cậu học trò Việt Nam ấy đã lên đường sang du học ở Pháp.

Chỉ ba tháng sau khi nhập học vào Trường Đại học Montpellier, ở tuổi 17, Nguyễn Mạnh Tường đã có trong tay Chứng chỉ Văn chương Pháp (Certificat de la Littérature Francaise) trước sự kinh ngạc của các thày trò người Pháp đối với tài học của một chàng trai bản xứ. Năm 19 tuổi, cậu lại đoạt bằng cử nhân văn chương hàng ưu đẳng khiến cho các thày dạy kính nể và tạo điều kiện cho Nguyễn Mạnh Tường lấy luôn mảnh bằng danh giá Tiến sĩ Văn chương Nhà nước Pháp.

Và đến năm 1932, bước qua tuổi 23, Nguyễn Mạnh Tường đã làm nên một kỳ tích như các thầy đã đánh giá: cùng một lúc đạt cả hai bằng Tiến sĩ Nhà nước Pháp trên cả hai bộ môn văn chương và luật học. Sự kiện liên quan đến một trí thức trẻ người thuộc địa gây sự cảm phục của dư luận bao nhiêu thì chính quyền thực dân cũng e ngại bấy nhiêu như lời doạ dẫm của một phần tử thực dân tên là Clémenti Vautel trên tờ “Nhật báo” (Journal): “Người Pháp nên cẩn thận. Để người Việt Nam được học và học giỏi như vậy, liệu về nước họ có chịu ngồi yên không?”.

Một ấn tượng không bao giờ phai

Quả y như rằng, Nguyễn Mạnh Tường về nước với những thành tích vang dội, dân chúng ngưỡng mộ, giới trí thức đón tiếp ông nồng nhiệt, nhưng học lực của ông vấp phải sự thờ ơ của chính quyền.

Lúc này, trong nước bắt đầu khủng hoảng kinh tế, phong trào cách mạng bị đàn áp đang lắng xuống. Không có ai trọng dụng, Nguyễn Mạnh Tường lại qua châu Âu thực hiện một chuyến đi khảo sát và tiếp tục học hỏi ở nhiều quốc gia như Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Bỉ, Đức, Áo-Hung... Đó cũng là thời kỳ ông sáng tác được nhiều cuốn sách viết bằng Pháp ngữ chất chứa trong đó khát khao hiểu biết và cống hiến của một người trẻ tuổi đang khắc khoải vì đất nước mình còn là thuộc địa của một quốc gia được coi là văn minh mà ông rất ngưỡng mộ.

Sau này, Nguyễn Mạnh Tường từng kể rằng, khi mới 23 tuổi, còn trẻ măng vừa về nước với hào quang danh dự mang từ chính quốc về, ông gặp một người luống tuổi ngang bậc cha chú của mình quỳ xuống vái ông và khẩn cầu ông đừng lấy cái tài của mình làm việc cho Tây. Sự việc đó đã để lại một ấn tượng không bao giờ phai trong ông.

Vì thế, năm 1936, khi ở chính quốc và Việt Nam dấy lên Phong trào Mặt trận Bình dân, Nguyễn Mạnh Tường đã về nước và tham gia giảng dạy tại một trường trung học danh giá nhất dành cho người Việt Nam và sau này cung cấp nhiều nhà cách mạng: Trường Bưởi (mà ngày nay mang tên Chu Văn An).

Ông dạy các bộ môn kinh điển của nền văn hoá phương Tây liên quan đến văn chương và luật pháp. Đồng thời ông cũng mở văn phòng luật sư được nhiều người biết đến ở đường Gambetta (nay là Trần Hưng Đạo), Hà Nội. Nguyễn Mạnh Tường có một số bài giảng tại Đại học Đông Dương như một ngoại lệ dành cho một tri thức thuộc địa.

Góp phần quảng bá Việt Nam kiên cường, trí tuệ

Cách mạng tháng Tám bùng nổ mở ra cho Nguyễn Mạnh Tường cơ hội cống hiến cho Tổ quốc. Ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời tham gia Đoàn đại biểu Việt Nam dự Hội nghị Đà Lạt nhằm ngăn chặn âm mưu tái chiếm thuộc địa của thực dân Pháp, cùng nhiều trí thức yêu nước khác như Hoàng Xuân Hãn, Vũ Văn Hiền... và cả những nhà hoạt động chính trị theo nhiều khuynh hướng như Nguyễn Tường Tam (trưởng đoàn) và Võ Nguyên Giáp (phó đoàn). Trong bối cảnh ấy, cái mẫu số chung là tinh thần ái quốc đã gắn kết họ lại trong một mục tiêu chung là bảo vệ nền độc lập.

Chiến tranh bùng nổ, Nguyễn Mạnh Tường cũng như số đông trí thức Việt Nam khác chấp nhận cuộc sống và chiến đấu gian khổ ngoài chiến khu.

Với tầm kiến thức rộng lớn, ông tham gia vào các Đoàn Đại biểu của nhà nước kháng chiến dự Hội nghị Bảo vệ Hoà bình ở Bắc Kinh (1952), Đại hội Hoà bình Thế giới ở Vienna (1953), rồi làm trưởng đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Luật gia Dân chủ Thế giới ở Bruxelles. Lập luận và hiểu biết của Nguyễn Mạnh Tường đã góp phần làm cho thế giới biết đến một Việt Nam kháng chiến, kiên cường và trí tuệ...

Những tháng năm sóng gió

Kháng chiến thành công, vị giáo sư được nhà nước cách mạng phong bước lên bục giảng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Những tưởng, cơ hội để Nguyễn Mạnh Tường có thể đóng góp nhiều nhất cho nền giáo dục và học thuật của nước nhà, nhưng cuộc đời trớ trêu lại đẩy ông đến một bi kịch lớn.

Vị giáo sư đầy trí tuệ nhưng lại không đủ khả năng vượt qua những thử thách trên con đường phát triển của đất nước giữa lúc vừa lo xây dựng đất nước theo một mô hình chưa rõ ràng, đầy những khúc quanh và cạm bẫy của những sai lầm tả khuynh, lại vừa phải đi tiếp cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước vô cùng gian khổ. Đó là thời kỳ mà những lời nói thẳng luôn bị va đập vào bức tường của những giáo điều.

Nguyễn Mạnh Tường không những không phát huy được những điều ông học hỏi và tích lũy được cho đến độ mà ông đã nhiệt tâm phụng sự mà còn rơi vào những khủng hoảng về tư tưởng và gánh chịu nhiều thử thách mà chỉ có những người trí thức thực tâm yêu nước như ông mới vượt qua nổi.

Chính trong thời gian đầy sóng gió này, ông đã dồn tâm lực vào những công trình như một sự hồi cố về một thời nhớ nhung (nostalgie) rực rỡ hào quang: “Lý luận giáo dục châu Âu từ Erasme đến Rousseau thế kỷ XVI” (NXB KHXH, 1994), “Eschyle và bi kịch cổ đại Hy Lạp” (NXB Giáo dục, 1996), “Virgille, nhà thơ vĩ đại của thời kỳ La Mã cổ đại” (NXB KHXH, 1996).

Một tên tuổi đáng kính trọng nhưng không dễ noi theo

Năm 1989, Nguyễn Mạnh Tường có dịp trở lại mảnh đất nơi ông đã thành tài. Hiệu trưởng Trường Đại học Paris VII danh tiếng đã chào cựu học sinh của nhà trường bằng một lời văn đầy ấn tượng: “Đã 60 năm qua, trên đất nước Pháp này, chưa có một sinh viên Pháp hay một sinh viên quốc tế nào phá được kỷ lục của Giáo sư kính mến: hai bằng Tiến sĩ nhà nước ở tuổi 22” và mời Nguyễn Mạnh Tường nói trọn một ngày cho sinh viên nhà trường về cách học của mình...

Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đã qua đời, tấm gương trí tuệ cũng là kỷ lục ông đã giành được khi trai trẻ, và ngay cả cái bi kịch mà ông đã trải qua ở một thời kỳ đầy thử thách cũng mãi mãi là một bài học sâu sắc về số phận người trí thức trước những thăng trầm của đất nước, mà chỉ có lòng yêu nước cùng lòng tự trọng của người có học mới vượt qua nổi để nguyên vẹn cho đời sau một tên tuổi đáng kính trọng nhưng không dễ noi theo.


Nguồn: dantri.com.vn (06/02/08)

Xem Thêm

Tôn vinh và tri ân một nghề cao quý nhất
Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 hằng năm là dịp để toàn xã hội tôn vinh và tri ân những người thầy, người cô đã tận tụy cống hiến cho sự nghiệp trồng người. Đây không chỉ là ngày lễ ý nghĩa trong ngành giáo dục mà còn mang tính nhân văn sâu sắc, gắn kết tinh thần “tôn sư trọng đạo” - truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương: Khoa học phải luôn mở rộng hợp tác và học hỏi
GS.TSKH Nguyễn Đức Cương, một trong những nhà khoa học hàng đầu về hàng không - vũ trụ của Việt Nam, đã có hơn nửa thế kỷ cống hiến cho ngành khoa học kỹ thuật hàng không vũ trụ. Không chỉ là người đặt nền móng cho các sản phẩm bay tiết kiệm chi phí cho Việt Nam, ông còn là người thầy tâm huyết, truyền cảm hứng và kiến thức cho nhiều thế hệ trẻ…
An Giang: Người thắp lửa sáng tạo cho học sinh tiểu học
Đam mê đặc biệt với khoa học và sáng tạo, thầy giáo Nguyễn Văn Trung đã không ngừng nỗ lực truyền cảm hứng cho học sinh tiểu học, đồng thời hướng dẫn các em đạt được những thành tích ấn tượng ở cả cấp tỉnh lẫn cấp quốc gia.
Phú Yên: Những nữ trí thức góp phần cải thiện đời sống người dân
Trong thời kỳ hội nhập, sự phát triển của khoa học và công nghệ đóng vai trò là nền tảng thúc đẩy các ngành kinh tế - xã hội khác phát triển. Đặc biệt, trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH&CN) nữ trí thức không chỉ thể hiện khả năng sáng tạo, nghiên cứu mà còn góp phần tạo ra những ứng dụng thực tiễn giúp cải thiện đời sống người dân và phát triển kinh tế.
Tấm gương sáng trong nghiên cứu và bảo tồn di sản lịch sử
Ông sinh năm1948 tại Phường Hồng Hà, thị Yên Bái, là nhà khoa học tâm huyết, là tấm gương sáng về lòng kiên trì, sự đam mê nhiên cứu và cống hiến hết mình cho sử học của tỉnh Yên Bái. Những đóng góp của Nguyễn Văn Quang đối với ngành sử học đã để lại những dấu ấn sâu sắc và có ý nghĩa to lớn trong việc bảo tồn di sản lịch sử địa phương nơi có nhiều di tích lịch sử và văn hóa dân tộc vùng cao.

Tin mới

Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Vutsa thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP
Mới đây, Vusta tổ chức Hội thảo Góp ý Dự thảo Kế hoạch của Liên hiệp Hội Việt Nam thực hiện Nghị quyết 107-NQ/CP ngày 09/7/2024 nhằm thực hiện Nghị quyết số 45-NQ/TW về công tác trí thức. Ông Phạm Ngọc Linh – Phó chủ tịch Vusta và ông Nguyễn Quyết Chiến – Tổng Thư ký Vusta chủ trì hội thảo.
Phú Yên: Giải thể 03 tổ chức Hội thành viên
UBND tỉnh Phú Yên vừa ban hành các Quyết định số 1471, 1472, 1473/ QĐ-UBND về việc giải thể 03 tổ chức Hội là thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Phú gồm: Hội Kế hoạch hoá gia đình, Hội Phụ sản và Hội Y tế thôn bản. Đây là các Hội không còn hoạt động liên tục mười hai tháng theo quy định.
Cụm thi đua số 3 tổng kết công tác năm 2024
Ngày 22/11, tại thị xã Sa Pa, Hội nghị tổng kết công tác thi đua, khen thưởng năm 2024, triển khai phương hướng nghiệm vụ năm 2025 của Cụm thi đua số 3 do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật tỉnh Lào Cai làm cụm trưởng đã được tổ chức.
Quảng Ngãi: Tuyên truyền chủ trương của Đảng cho trí thức
Chiều ngày 19/11, Liên hiệp Hội tỉnh đã phối hợp với Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy tổ chức hội nghị thông tin, tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đội ngũ trí thức tỉnh Quảng Ngãi với chủ đề: “Tình hình xung đột Israel-Hamas, Hezbollah; xung đột Nga-Ukraine. Tác động và xử lý của Việt Nam”.
Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu tác động của đốt mở tại Việt Nam
Mặc dù 68% số người được khảo sát có ý thức về môi trường, 80% có ý thức về sức khỏe, nhưng vẫn thể hiện sẽ tiếp tục “đốt đồng” (đốt lộ thiên/đốt mở trong nông nghiệp), với lý do chủ yếu “vì tin có tác dụng tốt, nhanh, rẻ”. Do vậy, cần có giải pháp truyền thông phù hợp để thay đổi thói quen này.