Nguyễn An Ninh trước toà án thực dân
Trong bối cảnh ấy, người thanh niên trí thức trẻ mới đậu cử nhân Luật khoa ở Paris về là Nguyễn An Ninh nắm được tình hình, hăng hái đấu tranh đòi chính quyền Pháp phải thực thi dân chủ ở Nam Kỳ, đúng theo quy chế là “đất Pháp”.
Ông đăng đàn diễn thuyết nhiều lần, công khai đòi chính quyền Pháp phải thực thi các quyền dân chủ đối với người Việt Nam. Các buổi diễn thuyết của ông được hoan hô nhiệt liệt. Ông trở thành nhà hùng biện, tập hợp được đông đảo quần chúng người Việt và cả người Pháp.
Ông lại cùng với một người Pháp lai Nga, Dejean de la Batie, lập ra tờ báo La Cloche fêlée(Tiếng Chuông rè) ngày càng được nhiều độc giả ủng hộ.
Một luật sư dân chủ, ông Paul Monin, có liên hệ với André Malrauro, ra tờ báo l’Indochine năm 1925, cũng đồng chính kiến với Nguyễn An Ninh, thẳng thừng tố cáo chính quyền Pháp ở Nam kỳ đã chẳng những không chịu áp dụng mà hơn nữa còn vi phạm những quyền tự do làm chủ là nguyên lý bất di bất dịch của Cách mạng tư sản dân quyền Pháp.
Hoạt động của Nguyễn An Ninh vì vậy ngày càng tăng thêm uy thế. Ông trở thành “người thức tỉnh cả một thế hệ mới” (mệnh danh mà Daniel Hémery đã trân trọng dành cho ông).
Chính quyền thuộc địa của bọn thực dân phản động tất nhiên không thể để ông yên.
Chúng bắt ông lần thứ nhất ngày 8 – 6 – 1926; lần thứ hai ngày 28 – 9 – 1836 cùng với Tạ Thu Thâu và Nguyễn Văn Tạo; lần thứ ba ngày 5 – 9 – 1937. Lần này chúng đưa ông ra xét xử trong 3 phiên toà, cố nại những chứng cớ vu vơ để khép án ông 2 năm tù. Sau đó, ông được trả tự do có điều kiện ngày 3 – 3 – 1939 rồi đến ngày 5 – 10 cùng năm lại bị bắt lại và đưa ra đày ngoài Côn Đảo ngày 10 – 2 – 1940. Ở đó, dưới sự đàn áp dã man của bọn cai ngục, ông thụ bệnh, không được cứu chữa, đã thở hơi cuối cùng năm 1943.
Người bạn thân từng ngưỡng mộ ông là bà Clara Malraux, vợ của danh sĩ André Malraux, đã viết về cái chết của ông: “Cần phải hiểu vì đâu, vì ai, mã đã phụt tắt trí thông mình mẫn tiệp của ông, tuổi thanh xuân của ông, lòng can đảm của ông, ý chí xả thân vì nước của ông”.
Phiên toà xử con người chính nghĩa năm 1937 đáng được phanh phui như một trò hề mà nền pháp chế thuộc địa sáng tạo ra, làm ô danh nước Pháp và tổ chức tư pháp của nó lúc bấy giờ.
Mấy tư liệu dẫn sau đây chứng tỏ điều đó:
1. Bức thư của bà Nguyễn An Ninh gửi cho ông Moutet, Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại và ông Brévíe, toàn quyền Đông Dương khẳng định: “Điều vu cáo này là một sự bịa đặt của Sở Mật thám để cho Toà mạnh dạn lên án chồng tôi”.
2. Bài biện hộ của Trạng sư Jean Loye cho Nguyễn An Ninh và Nguyễn Văn Nguyễn tạo Toà án Trà Vinh ngày 23 – 11 – 1937 và Toà Thượng thẩm Sài Gòn ngày 4 – 1 – 1938.
Dựa vào 3 phần đáng phân biệt ra để thấy sự thật:
a) Cách dùng thì giờ của 3 người Ninh, Nguyễn và Sau những ngày trước cuộc biểu tình và trong ngày xảy ra biểu tình.
b) Sự phân định các vai trò trong tổ chức cuộc biểu tình.
c) Các hành trình mà người ta bịa đặt ra cho họ hồi buổi chiều hôm trước, lúc ban đêm và trong buổi mai ngày xảy ra biểu tình.
Để chứng minh rằng một bộ phận những lời khai ấy là hoàn toàn bịa đặt và là một tài liệu giả dối.
Trạng sư Loye giải thích nguyên nhân sự giả dối ấy là nguyên nhân chính trị.
“Tôi xin đọc các ngài nghe vài hàng, nó đã làm cho tôi nhìn thấu sự ích lợi của việc nhét vào tập hồ sơ tờ báo cáo của ông Esquivillon, bấy giờ làm Thanh tra các việc chính trị và hành chính gửi cho ông Thống đốc Nam Kỳ nói về những việc đã xảy ra trong vụ biểu tình ở Càn Long”.
Tôi nhấn mạnh vào chữ “ bí mật”. Nó là một bản báo cáo chính trị bí mật, tuyệt đối ngoài việc tư pháp, của một viên quan cai trị gửi cho ông Thống đốc. Nó được viết như sau:
“… Những cuộc biểu tình do nhóm La Luttetổ chức để chống việc nộp thuế, làm mất oai quyền và phá hoại ảnh hưởng của người Pháp cần phải được chấm dứt…
Nếu người ta muốn cho xứ Nam Kỳ có thể làm ăn trong sự yên tĩnh và trật tự, thì phải dùng bất luận thủ đoạn gì, để làm cho nhóm La Lutte hết đường vận động những đám quần chúng nhẹ dạ nghe theo chúng”.
Bằng bất luận thủ đoạn gì!
Đó chính vì thế mà cái văn kiện ngoài việc tư pháp (extra – judiciaire) mới có trong tập hồ sơ này.
Đó là ý muốn của nhà cầm quyền.
Bằng bất luận thủ đoạn gì! Dù là chắc chắn hay lố bịch, tốt hay xấu, công bằng hay bất công.
Tôi có cái bổn phận đáng tiếc phải nói rằng: Cái việc nhét một văn kiện như thế vào trong tập hồ sơ vụ án là một việc uy hiếp lương tâm của quan toà vì sự độc lập của Pháp lý.
Các quan toà ở đây, trái hẳn với các quan toà bên chánh quốc, có thể bị thay đổi, bị cách chức, và ai được quyền quyết định những sự thay đổi ấy? Ông Tổng trưởng bộ Tư pháp chăng? Thưa không, mà là ông Tổng trưởng bộ Thuộc địa, nghĩa là ông sếp của các quan Thống đốc, các quan cai trị, các sở lính kín.
Tôi không hề dám dạy khôn cho các vị quan Toà xứng đáng như các ngài, và tôi cũng không hề có ý dạy khôn cho các ngài khi tôi nói rằng ông chánh án một toà hoà giải có quyền hạn rộng như Toà án Trà Vinh lại càng dễ có cảm giác bị thay đổi, dễ bị khiến chiều theo ý muốn của nhà cầm quyền hơn một vị quan toà khác, bởi vì ông ta đã vừa làm quan tòa, vừa làm Biện lý, vừa làm Chính phủ truy tố mà cũng vừa làm quan toà định án.
Nhân cái chết của một vị biện lý ở Sài Gòn trước đây, một tờ nhật báo lớn ở xứ này trong nhiều bài báo liên tiếp, đã nêu lên cái tư tưởng rất đúng của Montesquieu:
“Khi chính trị lọt vào trong Toà án, thì công lý phải đi ra”.
Các ngài đã có bằng chứng tuyệt đối là chính trị đã lọt vào trong tấm thành này rồi, nhưng tôi hoàn toàn tin nhiều ở các ngài, các ngài sẽ không chịu bỏ đi, và các ngài sẽ liệng cái chính trị ấy ra ngoài.
3. Bài biện hộ của luật sư Trịnh Đình Thảo
a) Nhấn mạnh nguyên tắc đối diện tranh biện, để gạt bỏ những lời khai do bức cung hoặc do bố trí vu cáo.
b) Đề nghị không áp dụng máy móc khoản 91 của Hình luật ác nghiệt, thật sự là một văn kiện mà những kẻ vì nó bị khép án hết sức phản kháng, những kẻ tiêu biểu cho đôi chút tự do trong các ý kiến chính trị cũng đã thù ghét, mà chính những người phụ trách quyền đem nó ra thi hành cũng phải cứ ngại trong lòng.
c) Theo tinh thần ấy, Ninh, Nguyễn và Sáu là vô tội, họ không đáng phải bị giam.
Đứng về phương diện triết lý, tôi nói thêm một điều nữa: “Vụ xử này rất quan hệ đối với mấy người bị cáo thông minh, trí tuệ, có học thức. Họ là những tay lãnh đạo. Có lẽ nào ngài lại tưởng tượng rằng họ khờ dại đến nỗi tự họ đi tham gia những cuộc biểu tình, trong trường hợp mà những cuộc tranh đấu ấy lại là do họ gây ra?
Tôi xin cùng với bà Ninh xin tha bổng cho chồng bà; và tha bổng Ninh thì ngài sẽ tha bổng cả hai người đồng bị cáo với Ninh. Lời tuyên án đầy công lý nhân đạo đúng theo tinh thần của Mặt trận bình dân.
4. Bức thư của Nguyễn An Ninh gửi Uỷ ban Điều tra (nay còn được lưu trữ trong phông Commision Guernut tại Trung tâm Lưu trữ Pháp quốc Hải ngoại ở Aixen Provence – Pháp). Pháp văn, có nội dung như sau:
Nhà tù Trà Vinh, ngày 26 – 10 – 1937.
Kính gửi các vị thành viên trong Uỷ ban Điều tra.
Thưa các ngài,
Tôi biết rằng những người kế tục những ai đã nổi dậy để bảo vệ Dreyfuss, nếu ngày nay họ không là những kẻ tòng phạm của sự bạo ngược, thì họ dễ dàng thấy những người vô tội đang phải chịu đựng và chết trong các nhà tù ở các thuộc địa Pháp như thế nào.
Mặc dù là người ủng hộ chân thành và tận tâm đối với Mặt trận bình dân Pháp, nhưng tôi cũng không chờ đợi gì hơn, ngoài những lời hứa của Chính phủ bình dân, để không còn phải chịu đựng những ngày dài thất vọng nữa.
Tuy vậy, thưa các ngài trong Uỷ ban Điều tra, nếu các ngài muốn biết ở Nam Kỳ, lãnh thổ của Pháp, nơi mà sự tự do có tiếng là được tôn trọng hơn trong các xứ khác cũng thuộc Liên bang một cách chính xác như thế nào, nơi mà ở đó người ta tiến hành đưa những người vô tội vào nhà tù, thì xin các ngài hãy đến gặp tôi ở nhà tù tỉnh Trà Vinh, nơi tôi hiện đang bị giam hãm. Hoặc các ngài hãy triệu tập tôi đến gặp các ngài, tôi sẽ vạch rõ để các ngài thấy, bằng việc lợi dụng một sự trùng hợp việc tôi đến Càn Long sau cuộc biểu tình của nông dân vài giờ, thì mật thám địa phương, một cơ quan có quyền lực tối thượng ở xứ này, nhờ dùng những thủ đoạn lừa dối và tra tấn ép buộc, đã lập ra một hồ sơ để kết tội tôi là đã tham gia vào cuộc biểu tình này.
Cho đến nay, Toà án vẫn từ chối không chịu nói với tôi về những tội danh cụ thể mà họ đã buộc cho tôi. Tôi sẽ trao cho Uỷ ban Điều tra mọi bằng chứng ngoại phạm và nhân chứng, những bằng cớ ấy sẽ chống lại những lời kết án dối trá đối với tôi.
Tuy nhiên, bất chấp những khiếu nại của tôi, việc thẩm cứu vẫn dồn dập đến, để giữ lấy một nửa sự mơ hồ có lợi cho sự suy diễn của họ hòng biện minh cho việc giam giữ tôi.
Xin các ngài lưu ý rằng tôi có 5 đứa con; rằng để nuôi nấng các con, tôi đã phải dùng phần lớn thời giờ để ra công tìm kiếm đằng sau một nghề; rằng tôi đã phải trả mất 4 năm trong cuộc đời tự do của mình để bày tỏ quan điểm chính trị mà tôi cho rằng rất ôn hoà. Với các tình tiết này, các đao phủ đừng nên cố tình trì hoãn việc trả lại tự do cho tôi.
Nếu vì mục đích từ chối gặp tôi và phủi tay theo kiểu Philato, Uỷ ban Điều tra cho rằng trường hợp của tôi chỉ là trường hợp cá nhân, thì tôi mong rằng Uỷ ban Điều tra hãy quan tâm đến tự do và an ninh cho tất cả mọi người dân lương thiện của đất nước này.
Xin gửi tới các ngài thành viên trong Uỷ ban Điều tra lời chào kính trọng.
Nguyễn An Ninh
Kẻ bị giam giữ ở nhà tù Trà Vinh.








