Người Nhật, phố Nhật và di tích Nhật ở Hội An
Người Nhật với Hội An
Năm 1989, ở Nhật Bản vừa mới cho ra mắt bạn đọc cuốn Người Nhật Bản ở thời đại Châu Ấn Thuyềncủa nhà báo Ogura Sađao. Trong cuốn sách này, tác giả đã trình bày khá cặn kẽ những hiểu biết phong phú của mình về hoạt động của các thương nhân Nhật Bản ở vùng Đông Nam Á trong thời kỳ ngoại thương sôi động nói trên. Tuy nhiên, cũng giống như các tác giả trước đó, Ogura Sađao chưa khẳng định dứt khoát thời điểm mở đầu những hoạt động thương mại của người Nhật ở Hội An, mà chỉ áng chừng nó vào khoảng thế kỷ XVI - đầu thế kỉ XVII, khi Mạc Phủ bãi bỏ lệnh đóng cửa, cấp những giấy phép xuất dương (Shuinjo) đầu tiên cho các thuyền buôn.
Có những chứng cứ cho thấy không phải đến thời Shuinsen (bắt đầu từ năm 1592) thương nhân Nhật Bản mới đến buôn bán ở hải cảng thuộc phạm vi kiểm soát của chúa Nguyễn. Trong sách Dị quốc vãng lai nhật kýcó ghi một bức thư của Đoan quốc công (tức chúa Nguyễn Hoàng) gưi Mạc Phủ Tokugawa đề ngày 5-5 năm Hoằng Định thứ 2 (1601). Qua bức thư này, Nguyễn Hoàng muốn thanh minh với Togugawa về sự kiện thuỷ quân của chúa Nguyễn đã tấn công nhầm vào tàu buôn của thương nhân Nhật tên là Bạch Tần Hiển Quý vào năm 1585. Sự kiện này có chép trong Đại Nam thực lục tiền biên- bộ chính sử của nhà Nguyễn. Căn cứ vào lời lẽ bức thư, chúng ta biết rằng từ trước năm xảy ra sự kiện đó (năm 1585), Bạch Tần Hiển Quý đã thường xuyên đến Đàng Trong để buôn bán.
Trong sách Đại Nam thực lục tiền biên, ở thời điểm năm 1572 có một đoạn bình luận về công đức của Nguyễn Hoàng như sau: “Bấy giờ Chúa ở trấn hơn 10 năm, chính sự rộng rãi, quân lệnh nghiêm trang, nhân dân đều yên cư lạc nghiệp (…). Thuyền buôn các nước đến nhiều”.
Sử dụng các nguồn sử liệu Nhật Bản, Noel Peri cũng đã từng chứng minh vào năm 1583 đã có một tàu Nhật Bản đến khu vực Touron (Đà Nẵng).
Như vậy, chúng ta có cơ sở để nói rằng trước thời điểm Mạc Phủ chính thức cấp giấy phép cho thuyền buôn ra nước ngoài nhiều năm, các thương nhân Nhật Bản đã từng đến bờ biển Đàng Trong buôn bán. Và, mặc dù chưa tìm thấy những thông tin trực tiếp để khẳng định, nhưng rất có thể những thương thuyền này đã đề cập đến Kẻ Chiêm (sau này là Hội An).
Từ năm 1592, thuyền buôn Nhật đến Hội An là điều không có gì phải bàn cãi nữa. N.Peri còn nêu tên những chủ thuyền đến đây vào năm này. Đó là hai thương nhân Suetsuugu và Funamoto.
Để tìm hiểu số lượng và địa bàn hoạt động của các thuyền buôn Nhật thời kỳ Shuinsen, GS. Iwao Seiichi đã tiến hành phân tích thông tin trên các giấy phép (Shuinjo) từ năm 1604 đến năm 1634. Cộng tổng số Shuinjo mà ông đã liệt kê cùng với địa chỉ đến, tôi đếm được 354 giấy phép. Trong đó có những địa điểm thuộc khu vực Đông Nam Á là 331, chiếm 93,5%.
Qua 6 trên 19 địa điểm các thuyền Nhật được phép đi đến, có thể chứng minh là thuộc lãnh thổ Việt Nam (kể cả địa điểm Champa, khi ấy còn là một quốc gia riêng biệt). tương ứng với 6 địa chỉ này là 130 Shuinjo, tức là xấp xỉ 40% tổng số giấy phép cấp cho tàu thuyền đi đến các nước Đông Nam Á (130/131). Riêng số Shuinjo chỉ định thuyền buôn đến Hội An là 86 chiếc, chiếm 66% số giấy phép đến Việt Nam (86/130) (1).
Phân tích trên cho thấy trong phân bố theo địa chỉ đến độ trù mật của các thương thuyền Nhật tập trung ở các địa điểm thuộc lãnh thổ Việt Nam mà chủ yếu là Hội An.
Số liệu do Iwao Seiichi công bố mới căn cứ trên số lượng các giấy phép, tức là mới chỉ phản ánh số thuyền buôn chính thức của Mạc Phủ cho xuất dương. Những con số đó, tuy có giúp chúng ta hình dung được phần nào mức độ thương mại nhộn nhịp của thời Shuinsen và những nơi thuyền buôn Nhật lui tới, vẫn chưa phản ánh đúng thực trạng. Rõ ràng nó chưa bao gồm số thuyền buôn đến Đàng Trong và Hội An trước năm 1604, những thuyền buôn được cấp giấy phép đi đến nơi khác nhưng ghé qua Hội An và những thuyền buôn xuất dương không có giấy phép. Một chi tiết sau đây trong thư của Mạc Phủ Tokugawa viết cho chúa Nguyễn đã xác nhận hiện tượng có thuyền buôn Nhật Bản đến Đàng Trong mà không xin giấy phép: “Đối với thuyền từ nước chúng tôi đến, (ngài) hãy lấy dấu ấn trong thư này làm bằng cứ (để so sánh với dấu ấn trong giấy phép – T6). Những thuyền không mang giấy phép có dấu ấn (đó) ngài chớ nên tin cậy”. Bức thư này viết năm Khánh Trường thứ 6 (năm 1601), tức 9 năm sau khi tờ Shuinjo đầu tiên được cấp. Đoạn trích trên cho thấy ngay trong thời Shuinsen, cùng với những thuyền được giấy phép chính thức, còn có những thuyền không có giấy phép (vô ấn chi thuyền) đến Hội An.
Căn cứ vào sắc lệnh chính thức của Mạc Phủ thì năm 1636 là cái mốc cuối cùng của thời đại Shuinsen. Nhưng có một tư liệu đáng lưu ý là tấm bia đá ở động Hoa Nghiêm (chùa Non Nước) - tấm bia mà tất cả những ai đã nghiên cứu nó đều đoán định niên đại tạo lập vào năm 1640. Trên bia có dòng chữ “Nhật Bản quốc, Chaya Takeshima, Kawakami Kaheie, Asami Yasuke, cúng đồng 570 tấn”. ( Bia Phổ Đà sơn linh trung Phật). Trong dòng chữ này có ba chi tiết đáng chú ý:
1. Xuất xứ của ba người Nhật có tên trên đây là “Nhật Bản quốc” (chắc chắn không phải là Nhật kiều sống ở Nhật Bản Dinh, Hội An).
2. Trong số đó có Chaya Takeshima - người mà chúng ta có đủ chứng cớ là đã trở về Nhật và qua đời tại quê hương.
3. Của cải của họ cúng là đồng, một thứ hàng quen thuộc mà thương nhân Nhật thường đem đến buôn bán, trao đổi ở Hội An (chứ không chỉ là tiền, bạc như các Phật tử khác).
![]() |
Chùa Cầu - biểu tượng của di sản vật thể của Hội An. |
Với tất cả những gì đã trình bày ở trên, chúng tôi muốn rút ra một nhận xét là số lượng thuyền buôn Nhật Bản đến Hội An, trên thực tế, nhiều hơn số Shuinjo được cấp. Có nghĩa là hoạt động mậu dịch của các thương nhân Nhật Bản ở đây sinh động hơn nhiều so với những con số chính thức mà chúng ta biết đến thời Shuinsen.
Thiết nghĩ, không cần phải nhắc lại ở đây những mặt hàng buôn bán của các thương khách Nhật Bản bởi vì trong các công trình trước đây nhiều tác giả đã đề cập đến tương đối đầy đủ. Tuy nhiên, chúng tôi cũng muốn phân tích kĩ thêm một vài số liệu để hình dung khối lượng hàng hoá mà người Nhật đã buôn bán ở Hội An. Theo ước tính của Iwao Seiichi, mỗi thuyền buôn Nhật thời Shuinsen trung bình chở khoảng 1057 quan hàng hoá (tương đương 5.000kg). Lấy số lượng Shuinjo chính thức được biết đến thì số tàu Nhật cập cảng Hội An trong vòng 30 năm là 86 chiếc, tương ứng với khoảng 430 tấn hàng hoá từ Nhật Bản tới. Và, nếu những tàu này chở về nước đủ lượng hàng thì tổng số hàng hoá trao đổi thời kì đó cũng chỉ khoảng 860 tấn. Con số đó không phải là lớn.
Vai trò quan trọng của thương nhân Nhật trong thời kì này là ở chỗ họ đã kích thích mạnh mẽ sự phát triển của ngoại thương ở Đàng Trong. Trên cơ sở một cửa cảng Kẻ Chiêm đã có từ trước, sự xuất hiện của một người Nhật đã làm cho hoạt động mậu dịch trở nên thường xuyên hơn. Tính năng động thương mại của người Nhật được sự hỗ trợ bởi các chính sách cởi mở của chúa Nguyễn đã là nhân tố quan trọng tạo nên ở đây một đô thị cảng.
Do tính chất buôn bán theo mùa, các thuyền Nhật phải dừng chân tại Hội An trong khoảng gần nửa năm. Thường đây là thời kì họ đẩy mạnh việc giao tiếp với người Việt. Nhiều người trong số họ đã lấy vợ Việt Nam .
Chỉ riêng thông tin trên một tấm bia ( Phổ Đà sơn linh trung Phật) đã cho thấy trong số 10 người Nhật cúng của cải cho chùa thì chắc chắn có 5 người có vợ Việt (3 bà họ Nguyễn, 1 bà họ Đỗ, 1 bà họ Cụ). Không ít người Nhật đã ở hẳn lại Hội An.
Đời sống của người Nhật ở đây ra sao, từ trước đến nay chúng tôi mới chỉ có các ước đoán. Phân tích kĩ những thông tin trên tấm bia nói trên có thể cung cấp thêm những hình dung cụ thể hơn. Trên bia có khắc tất cả 82 tên người. Riêng số thuộc Nhật Bản Dinh và Tùng Bản Dinh đếm được 15 người (cả Nhật và Việt), chiếm 18,2%. Số tiền mà họ đóng góp lên tới 871 quan 50 lạng bạc, tức là khoảng 57,2% tổng số tiền đóng góp (871/1522,4 quan) và 71,4% tổng số bạc (50/70 lạng). Mức đóng góp cao nhất (300 quan) cũng thuộc về người Nhật Bản Dinh – ông Heizaburo và vợ là Nguyễn Thị Chức. So với mức đóng thấp nhất (5 quan) của hai vợ chồng người Việt (ông Đặng Khoan Minh và bà Phạm Thị Biểu) thì mức đóng góp đó lớn hơn đến 60 lần. Cần lưu ý rằng thời điểm đóng góp đang nói ở đây là lúc mà đời sống của dân phố Nhật đã sa sút.
Hiện tượng nói trên không thể giải thích là những người Nhật và gia quyết của họ sùng mộ đạo Phật hơn những tín đồ khác có tên trong bia. Sự lí giải có thể chấp nhận được chỉ vì họ sung túc hơn các Phật tử khác mà thôi.
Ngoài việc buôn bán thương mại, các thương nhân Nhật còn giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển quan hệ bang giao giữa Mạc Phủ và chúa Nguyễn. Tuy giữa hai nhà nước không có quan hệ ngoại giao chính thức, nhưng thông qua họ, Mạc Phủ và chúa Nguyễn thường xuyên có trao đổi thư từ và quà biếu cho nhau. Họ không chỉ đóng vai trò người chuyển thư mà hơn thế, còn làm sứ mệnh của các sứ giả. Qua các bức thư, ta thấy chúa Nguyễn luôn coi các thuyền buôn từ Nhật Bản là của Mạc Phủ phái đến.
Nhìn chung, các lái buôn Nhật giành được sự ưu ái của các chúa Việt.
Ngoài những bức thư gửi cho Mạc Phủ, chúa Nguyễn còn trực tiếp viết thư cho các thương nhân Honda Kouzukenosuke, Chaya Shiro Jiro… bày tỏ sự mong muốn họ tiếp tục về Hội An buôn bán. Đặc biệt, sự ưu ái của chúa Nguyễn với thương nhân Nhật được thể hiện trong việc chúa Sãi (Nguyễn Phúc Nguyên) gả con gái cho Araki Shutaro. Qua nội dung bức thư viết ngày 22-4 năm Hoằng Định 20 (năm 1619) của ông ban cho Shutaro, nhận nhà buôn này vào dòng họ quý tộc với các tên Nguyễn Taro, hiệu là Hiển Hùng, kết hợp với những ghi chép trong gia phả dòng họ Shutaro có đối chiếu với sử sách, có thể khẳng định sự kiện trên là có thật. Ở Đàng Trong, ông chúa có công lao lớn với sự phát triển đô thị Hội An là Nguyễn Phúc Nguyên. Ông quan tâm đến thương cảng này từ khi còn là Hoàng Thái tử được giao trấn thủ Quảng Nam . Ông có quan hệ mật thiết với Mạc Phủ Tokugawa và các thương nhân Nhật. Trong số 13 bức thư trao đổi giữa các chúa Nguyễn với phía Nhật Bản mà chúng tôi biết đến thì có 12 bức hoặc đề đích danh ông viết (Thụy Quốc công), hoặc xưng là An Nam quốc vương nhưng có niên đại trùng với thời ông nắm quyền.
Theo sách Liệt truyện tiền biênthì chúa Hi Tông (Nguyễn Phúc Nguyên) có bốn công chúa. Hai trong số đó (Ngọc Khoa và Ngọc Vạn) bị chép là “khuyết truyện”. Chúng ta biết rằng vào năm 1620, ông đã gả một công chúa cho vua Chân Lạp Chey Chetta II. Giáo sĩ Borri có mặt ở Đàng Trong khi đó có chứng kiến cuộc hôn nhân này. Các bộ sử của nhà Nguyễn không nói người công chúa ấy tên gì, nhưng chắc hẳn phải là một trong hai nàng “khuyết truyện”, còn người “khuyết truyện” thứ hai có thể là vợ Araki Shutaro. Cái tên Anio được chép đến trong gia phả dòng họ này rất có thể biến âm Nhật Bản của tên Ngọc Vạn chăng?
Phố Nhật ở Hội An
Có khá nhiều tài liệu nói đến sự tồn tại của dãy phố Nhật ở Hội An. Nhưng cho đến nay chưa có ai đưa ra được những chứng cớ thật xác đáng để chỉ rõ vị trí và quy mô của dãy phố này.
Một chỉ dẫn quan trọng là bức tranh “Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ” của dòng họ Chaya đang được lưu trữ ở Nagoya . Tuy vẽ rất không chính xác về tỉ lệ nhưng bức tranh cho phép khẳng định dứt khoát rằng phố Nhật lúc đó nằm ở bờ bắc con sông cái, là một dãy phố lớn.
Căn cứ vào kết quả địa mạo gần đây thì trừ vùng thị xã Hội An hiện nay, hầu hết các phần đất phụ cận khác đều có tuổi tạo thành tương đối trẻ. Vốn được bồi tụ hoàn chỉnh vào giai đoạn Holoxen trung (cách đây 4.000 – 6.000 năm), vùng nội thị Hội An từ lâu đã có một vị trí quan trọng. Trong mấy thế kỷ gần đây dòng sông Thu Bồn có nhiều biến đổi, nhưng những biến đổi mạnh mẽ lại diễn ra ở khu vực ngang với cầu Nhật Bản về phía thượng nguồn và ở khu vực ngang với cầu Cẩm Nam về phía cửa biển. Đoạn chảy ngang qua phần chính của thị xã về cơ bản là ổn định. Sự thay đổi của nó chỉ là hiện tượng bồi rộng dần phần phía nam của cồn kiến tạo cổ nói trên. Theo ý kiến của các chuyên gia địa mạo thì vùng nội địa Hội An vừa là một cồn cát cổ nhất, rộng nhất, đồng thời cũng là cao ráo nhất (khoảng 7-8m). Địa hình như vậy rất thuận tiện cho việc xây dựng một phố cảng.
Người Nhật đến vùng này tương đối sớm và có lẽ cũng là những người sớm có ý định xây dựng một khu phố, không thể không chú ý đến đặc điểm địa hình ở đây. Tôi cho rằng không nên tìm phố Nhật ở một nơi nào khác khu vực nội thị.
Căn cứ vào các văn khế bán nhà ở thế kỷ XVII mà nhiều tác giả đã trích dẫn, có thể biết rằng lưỡi đất phía nam thị xã, khoảng từ cầu Nhật Bản đến cầu Cẩm Nam (bao gồm phố Nguyễn Thái Học và đường Bạch Đằng) mới được hình thành trong khoảng thế kỉ XIX. Như vậy là trước đó, thời phố Nhật còn tồn tại, sông Cái chảy sát dãy nhà phía nam phố Trần Phú. Tên “cầu Nhật Bản” trong các tài liệu thư tịch và trong dân gian cũng như tên “phố Nhật” (rue Japonnaise) trên các bản đồ của Pháp đầu thế kỉ XX là hiện tượng đáng quan tâm. Những tên gọi này không phải là sự gán ghép vô cớ. Nó phải có cội nguồn lịch sử. Rất tiếc là những điều trên đây chưa được chứng minh bằng những di tích vật chất xác thực (kiến trúc, khảo cổ học…). Nói như vậy là chúng tôi có ý đoán định phố Nhật xưa trùng với phố Trần Phú ngày nay, hay cụ thể hơn là dãy nhà phía nam của Phố.
Từ sự đoán định này, chúng tôi muốn làm theo các thông tin có niên đại khác nhau để thử dựng lại các giai đoạn phát triển của phố. Thông tin cụ thể có niên đại sớm nhất mà tôi biết đến là đoạn mô tả của Giáo sĩ C. Borri. Ông đến Hội An vào năm 1618. Theo ông thì Faifo lúc đó có hai phố: phố Nhật và phố Trung Quốc. Vậy là thời kì này bên cạnh phố Nhật còn có phố của người Trung Quốc. Nếu phố Nhật trùng với đường Trần Phú thì phố Khách ở đâu? Borri không chỉ định cụ thể. Dựa vào các chú thích trên bức tranh “Giao Chỉ quốc mậu dịch độ hải đồ” mà chắc chắn phải được vẽ sau năm 1609 (vì bức tranh đã phản ánh cảnh tàu Bồ Đào Nha bị đốt vào năm đó) thì phố Trung Quốc nằm ở phía nam sông Cái. Điều này phù hợp với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thiệu Lâu và Cheng Ching Ho về người Hoa ở Hội An. Cũng cần bổ sung thêm là ngoài những chứng cứ về sự tồn tại sớm của người Hoa ở Cồn Sạn mà Chen Ching Ho đưa ra, gần đây chúng tôi còn phát hiện ra hàng loạt di tích khác ở xã Duy Vinh (Duy Xuyên) - một dải đất nằm ở phía tây đầm Trà Nhiêu. Chúng tôi đã đi tới một giả đoán là ở giai đoạn phát triển đầu tiên (nửa đầu thế kỷ XVIII), Hội An đã là một đô thị hai bờ sông: một phố Nhật ở bờ bắc và một dải phố từ Cồn Sạn đến Duy Vinh, quần tụ từ bờ phía đông đến doi cồn phía tây của đầm Trà Nhiêu. Đó là phố Khách.
Tư liệu có ý nghĩa chỉ định một giai đoạn phát triển khác của phố Nhật là bức thư của ông Shichirobei gửi về Nhật có vẽ sơ đồ ngôi chùa ông dự định xây, trong đó vị trí của phố Nhật khá rõ ràng. Bức thư này được viết vào năm 1673, năm cuối đời của Shichirobei. Đó cũng là niên đại của những thông tin về phố Nhật trong sơ đồ. Thời điểm này, sau vài ba chục năm ồ dạt di cư đến Đàng Trong, người Hoa đã hội nhập với nhịp điệu buôn bán sầm uất ở Hội An. Họ đã tìm chọn một nơi thích hợp dựng phố để làm ăn. Ngoài khu vực đầm Trà Nhiêu, Cẩm Hà và Cẩm Phô chính là vị trí của phố Khách trong thời kì này.
Hai tài liệu thường hay được trích dẫn khi nói về Hội An là kí sự của Thomas Bowyear và của Thích Đại Sán. Cả hai người này đều có mặt ở Hội An vào năm 1695, giai đoạn suy tàn của phố Nhật. Điều đáng tin cậy ở những thông tin này là mặc dù được công bố ở rất xa nhau nhưng những điều mô tả của họ rất khớp nhau. Đó là phố chỉ có một đường dọc bờ sông với hai dãy nhà hai bên. Rõ ràng lúc này người Nhật gần như đã hết vai trò. Họ chỉ còn lại khoảng 4 – 5 gia đình. Thương trường dần chuyển sang tay người Hoa. Họ tràn sang phố Nhật và mở rộng thêm về phía bắc.
Ở giai đoạn này, mặc dù vai trò buôn bán của thương hiệu Nhật bị sa sút nhưng hoạt động mậu dịch ở Hội An vẫn còn rất phồn thịnh. Sự thuyên giảm rồi đi đến chỗ mất hẳn vai trò của Nhật Bản có thể có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do chính sách đóng cửa của chính phủ Nhật.
Có thể hình dung thế nào về quy mô của phố Nhật ở thời điểm phát đạt nhất của nó? Tôi cho rằng những thông tin của Thomas Bowyear và Thích Đại Sán có thể giúp ta làm điều đó. Những người này đến Hội An vào lúc Hoa thương chiếm lĩnh phố Nhật và đang mở rộng lên phía bắc. Chiều dài của phố Nhật có thể vẫn được giữ nguyên. Theo Thích Đại Sán, nó dài chừng 3 đến 4 dặm (1,5 đến 2km). Còn theo Thomas Bowyear thì cả hai dãy phố có chừng 100 nóc nhà. Nếu chỉ tính riêng dãy phía nam, có thể ước tính 50 đến 60 ngôi nhà, tương đương với trên dưới 400 người.
Kết hợp những điều ghi chép của No. Borri với những nguồn thông tin khác có thể thấy phố Nhật là một khu vực tương đối độc lập và có quyền tự trị. Nó mang dáng dấp của một đô thị tự do thời trung cổ. Khu vực đó có tên gọi là Nhật Bản Dinh. Trên tấm bia Phổ Đà sơn linh trung Phật, bên cạnh tên “Nhật Bản Dình” còn thấy xuất hiện tên “Tùng Bản Dinh”. Chúng ta biết Tùng Bản là tên hiệu của thương nhân có thế lực ở Hội An là Shichirobei. Ông có quan hệ thân thiết với Araki Shutaro – con rể của chúa Nguyễn Phúc Nguyên. Cuối đời, ông có cho xây một ngôi chùa ở Hội An mang tên Tùng Bản Tự. Chúng tôi cho rằng Tùng Bản Dinh có thể là một vùng đất rộng trong phố Nhật thuộc quyền sở hữu riêng của Shichirobei.
Những di tích và dấu ấn Nhật Bản ở Hội An
Hẳn trước tiên ai cũng nghĩ tới cầu Nhật Bản. Song không phải không có người băn khoăn vì kiến trúc của nó còn giữ đến ngày nay khó có thể tách ra đâu là yếu tố Nhật. Cũng có thể giữa kiến trúc Nhật Bản và Trung quốc vốn đã không có sự phân định rạch ròi, cầu Nhật Bản lại được trùng tu nhiều lần với thời kì người Trung Quốc đã giữ vai trò chủ đạo của Hội An. Dấu ấn Nhật, nếu có, đã bị mờ phai cũng là điều dễ hiểu. Cách gọi Nhật Bản Kiều được cố định sớm trong văn bản (ít nhất là từ năm 1965) và sự phổ biến của truyền thuyết dân gian về nguồn gốc Nhật Bản của Chùa Cầu hiện là cơ sở chính để khẳng định người Nhật đã xây dựng nó trước tiên.
Căn cứ vào sơ đồ ngôi chùa Shichirobei dự định xây dựng ở Hội An, chúng tôi đã đưa ra một dự đoán rằng Tùng Bản Tự có vị trí tương ứng với chính cầu Nhật Bản. Và cũng rất có thể vào năm cuối của đời mình Shichirobei vừa sùng đạo Phật, vừa muốn làm gì có ích, ông đã cho xây dựng Chùa Cầu?
Về các ngôi mộ Nhật, tôi thấy không cần phải nhắc lại ở đây các ngôi mộ đã được nhiều nhà nghiên cứu nhắc đến. Tôi muốn nêu ra ở đây một ngôi mộ chưa thấy được công bố trong các công trình từ trước đến nay. Ngôi mộ này hiện nằm ở đất đội 5 xã Duy Vinh, huyện Duy Xuyên, thuộc khu vực đầm Trà Nhiêu xưa. Ngôi mộ hợp chất đắp hình mu rùa, bia quay chếch hướng đông bắc dấu tích của người chết. Rất có thể là đất Trường Kì ( Nagasaki ?). Giữa bia có hàng chữ viết dọc “Hiểu Đồng Thi công mộ”. Niên đại của mộ là năm Giáp Tị. Nhìn kiểu dáng trang trí bia, hướng mộ và tên chủ nhân, chúng tôi ngờ rằng đây là một ngôi mộ người Nhật.
Nhiều thế kỉ đã qua đi. Đô thị cảng Hội An nhộn nhịp một thời, nay đã thành một di tích cổ. Với những người Nhật thời Shuinsen, Hội An đã từng là nơi “đất lành chim đậu”. Không phải ngẫu nhiên mà trong số 19 địa điểm thương nhân đã từng đến buôn bán, chỉ có 4 nơi họ dừng lại xây dựng phố phường. Và trong 4 nơi dừng đậu đó, chỉ duy nhất ở Hội An dấu tích của người Nhật vẫn còn được lưu giữ. Di ảnh của một thời quan hệ giao thương chặt chẽ, hoà hiếu đem lại mối lợi cho cả hai bên đang là sự nhắc nhở cách ứng xử của chúng ta trong hiện tại và tương lai.
___________
Chú thích: (1) Dẫn theo Okura, Sađao, Sđd, tr. 193.